Giáp Ngọ 1954, ta thắng lớn ở Điện Biên Phủ. Giáp Ngọ năm nay, ta kỷ niệm 60 năm ngày chiến thắng vĩ đại. Điện Biên Phủ đã đi vào lịch sử nước ta như một huyền thoại. Sức mạnh nào đã đưa dân tộc ta đến thắng lợi ấy?


*
Tranh: Đào Hải Phong

Như chúng ta từng biết, đó là sức mạnh tổng hợp của cả chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa - sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.

Bạn đang xem: Hoan Hô Chiến Sĩ Điện Biên”

Trong bài viết này, xin thử nói đôi điều về chiến thắng Điện Biên Phủ dưới góc nhìn văn hóa.

Nhiều người cho rằng: chí căm thù giặc là một sức mạnh to lớn. Chẳng thế mà câu hò kéo pháo lên Điện Biên năm xưa, nay vẫn còn khắc ghi lòng người: “Vực sâu thăm thẳm, vực nào sâu bằng chí căm thù”. Căm thù lũ giặc đã đặt ách thống trị trên đất nước ta hơn 80 năm. Căm thù chúng muốn xâm chiếm nước ta một lần nữa bằng việc gây ra cuộc chiến tranh 1945-1954.

Nói thế chẳng những đúng mà còn rất đúng. Bởi không có chí căm thù làm sao có động lực chiến đấu? Nhưng nếu đi sâu vào lòng người, tình người và cội nguồn văn hóa, ta sẽ thấy cái lớn lao hơn, thiêng liêng hơn lại là tình yêu - yêu đất nước, yêu quê hương, yêu đồng bào, yêu những thân phận bị đọa đầy đau khổ. Chính vì yêu nước thương dân mà lớp lớp người đã đi vào con đường cách mạng và kháng chiến. Đánh giặc để giữ nước nhưng giặc tan rồi thì không giữ mãi mối căm thù với kẻ bại trận. Bộ đội ta vâng lệnh Bác Hồ tiến lên Điện Biên là để đánh thắng kẻ thù ở đó, nói là “tiêu diệt toàn bộ quân địch” không có nghĩa là giết hết mọi người rơi vào tay ta. Hàng nghìn tù binh đã được đối xử nhân đạo, khoan dung. Những tướng tá đầu hàng không ai bị làm nhục.

Tướng Đờ Cát-xtơ-ri (được phong tướng một ngày trước khi thua trận), sáng mồng 7-5, đã cấp báo về Bộ chỉ huy quân Pháp ở Hà Nội rằng lực lượng của ông ở Điện Biên Phủ đã không còn khả năng chống cự, chỉ còn cách hạ vũ khí. Tướng Na-va trả lời qua máy vô tuyến điện thanh: “Đừng giơ cờ trắng, chỉ ngừng chiến đấu thôi”.

Đại tá Lăng-gle kể lại: Hà Nội đã thỏa thuận cho đầu hàng nhưng “không phất cờ trắng”. Lúc đó là 1 giờ chiều ngày mồng 7. Các sĩ quan đứng vây quanh sở chỉ huy chờ đợi... Đúng 5 giờ, cửa hầm sở chỉ huy bật nắp. Lúc đó chúng tôi đều nghĩ đến trái lựu đạn. Lạy Chúa! Rất có thể một trái lựu đạn liệng xuống chỗ bậc hầm và sẽ nổ tung hết. Nhưng trường hợp này đã không xảy ra. Các binh sĩ chiến thắng Việt Nam đội mũ nan, lưỡi lê đầu súng bước vào chỉ nói: “Đứng dậy”.

Thế đấy, cuộc đầu hàng của Bộ chỉ huy tướng Đờ Cát-xtơ-ri là như vậy!

Mười lăm năm sau Điện Biên Phủ, tháng 6 năm 1969, tại Pa-ri, với tư cách thành viên Đoàn Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Pa-ri về Việt Nam, tôi có dịp gặp tướng Đờ Cát-xtơ-ri. Ông được Đại diện Phòng thông tin của Mặt trận mời dự buổi tiếp khách giới thiệu việc thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Ông đến với vẻ mặt hiền từ, thân thiện, lịch sự chúc mừng sự ra đời của một chính phủ đại diện chân chính cho nhân dân miền nam. Chắc ông cũng hiểu những chiến sĩ giải phóng miền nam là những người kế thừa truyền thống Điện Biên.

Điện Biên Phủ và cuộc kháng chiến Việt Nam có sức cảm hóa lớn. Nhiều người Phi trong đội quân viễn chinh Pháp, vốn là dân các nước thuộc địa của Pháp, sau khi về quê hương, học tinh thần Việt Nam đã trở thành những chiến sĩ đấu tranh cho nền độc lập của nước họ. Có những người trở thành nhà lãnh đạo hay nguyên thủ quốc gia.

Trong những năm tháng tham dự Hội nghị Pa-ri, tôi ngày càng hiểu rõ hơn những tình cảm của nhân dân và Chính phủ Pháp đối với Việt Nam.

“Mặc quần áo đen, nét mặt co rúm vì xúc động, ông Thủ tướng La-ni-en nặng nề bước lên các bậc diễn đàn điện Buốc-bông (Bourbon)... Ông bắt đầu bằng một giọng đứt quãng: “Chính phủ vừa được tin tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã thất thủ sau 20 giờ chiến đấu gay go liên tục”. La-ni-en nói chậm rãi trong không khí của hội trường rộng rãi âm vang, người ta nghe tiếng nói của ông như tiếng khóc nức nở của một thiếu phụ ở chốn xa xăm nào đó”.

Nhưng sau này, từ thất bại trong chiến tranh Đông Dương, tháng 9 năm 1966, giữa lúc Mỹ ào ạt leo thang chiến tranh ở Việt Nam, Tổng thống Pháp Đờ Gôn, trong một bài diễn văn nồng nhiệt trước công chúng ở Phnôm Pênh (Cam-pu-chia), đã mạnh mẽ nói rằng ông không tin ở một chiến thắng quân sự của Mỹ, và “thái độ của nước Pháp là đứng về phía lên án những hành động đó”.


Năm 1968, Chính phủ Pháp hoan nghênh và tiếp nhận việc lấy Pa-ri làm nơi đàm phán nhằm chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Hội nghị Pa-ri kéo dài 5 năm liền, kể từ lúc bắt đầu (tháng 5-1968) cho đến khi ký được Hiệp định (tháng 1-1973).

Sau khi Việt Nam thống nhất, năm 1993, Tổng thống Pháp Phrăng-xoa Mít-tơ-răng có chuyến thăm đặc biệt Việt Nam, đến tận Điện Biên Phủ, không phải để chiêm ngưỡng chiến trường xưa mà là để bày tỏ sự hòa hiếu giữa hai nước Pháp và Việt Nam trong thời kỳ mới.

Còn nhớ: Những ngày đàm phán cuối cùng ở Pa-ri, tháng 12 năm 1972, chính tại thủ đô nước Pháp, chúng tôi đã chứng kiến một điều kỳ lạ. Chiến thắng của ta đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng B52 của Mỹ đánh vào Hà Nội, Hải Phòng và nhiều nơi khác ở miền bắc được vinh danh là trận Điện Biên Phủ trên không. Hà Nội trở thành thủ đô của lương tri và phẩm giá con người. Vinh dự đó chẳng những làm nức lòng Việt Nam mà còn được sự tán thưởng của dư luận Pháp và cộng đồng thế giới.

Chiến thắng Điện Biên Phủ và Điện Biên Phủ trên không là biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước nồng nàn, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và đức hy sinh cao cả của toàn dân tộc đoàn kết một lòng, sẵn sàng xả thân vì độc lập tự do của Tổ quốc. Đó là bài ca hùng tráng về tầm cao văn hóa Việt Nam.

Chào mừng thắng lợi Điện Biên Phủ, Tố Hữu viết hai câu thơ sáng mãi với thời gian:

Chín năm làm một Điên Biên

Nên vành hoa đỏ nên thiênsử vàng.

Về cõi vĩnh hằng cuối năm Qúy Tỵ vừa qua, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị Tổng chỉ huy huyền thoại của Điện Biên Phủ năm xưa chắc đã mang theo mình câu đối tặng đậm chất nhân văn:

Văn lo vận nước Văn thành Võ

Võ thấu lòng dân Võ hóa Văn.

Xuân Giáp Ngọ 2014

Ðiện Biên Phủ và cuộc kháng chiến Việt Nam có sức cảm hóa lớn. Nhiều người Phi trong đội quân viễn chinh Pháp, vốn là dân các nước thuộc địa của Pháp, sau khi về quê hương, học tinh thần Việt Nam đã trở thành những chiến sĩ đấu tranh cho nền độc lập của nước họ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà chiến lược quân sự thiên tài, Người không chỉ sớm hoạch định đường lối đúng đắn cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mà còn thường xuyên cùng Bộ Chính trị, Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo và tham gia duyệt kế hoạch nhiều chiến dịch, tham dự tổng kết, rút kinh nghiệm, chỉ ra những khuyết điểm cần tránh trong các chiến dịch lớn. Người thực sự là linh hồn của những chiến công vang dội mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”. Đặc biệt, Người đã luận giải rõ ý nghĩa của Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 1954 trên cả hai phương diện: lịch sử và thời đại.

*

1. Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954

Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã đập tan ý chí xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.Với tính chất là cuộc quyết chiến chiến lược trong chiến cuộc đông xuân 1953 - 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 là trận thắng quyết định để đi tới kết thúc chiến tranh. Đây là thắng lợi quân sự lớn nhất của quân đội và nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), tiêu diệt tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của Pháp ở Đông Dương, làm cho kế hoạch Nava thất bại hoàn toàn; làm xoay chuyển cục diện chiến tranh ở Đông Dương. Không những vậy, chiến thắng này đã tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao của Việt Nam giành thắng lợi. Điều này đã chứng minh về việc cảnh báo khuynh hướng ảo tưởng, chờ đợi, ỷ lại vào giải pháp ngoại giao trước đó là hoàn toàn đúng đắn khi Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích rõ chủ trương nhất quán của ta là hòa bình, nhưng kinh nghiệm cho thấy: “Phải đánh bao giờ cho đế quốc qụy, nó biết không thể đánh được nữa, nó mới chịu đàm phán. Đừng có ảo tưởng mình muốn đàm phán là nó đàm phán”; “phải đánh cho Pháp qụy. Lúc ấy, có đàm phán mới đàm phán, chứ không phải đưa đàm phán ra là nó đàm phán ngay đâu. Đừng có ảo tưởng. Mục đích của nó là xâm lược. Nó mất 99% còn hy vọng 1%, nó vẫn đánh. Phải đánh nó qụy nó mới chịu”.

*

Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hòa bình, độc lập và chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa gắn với đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đánh giá về ý nghĩa trọng đại này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một dân tộc bị áp bức đã đánh bại cuộc xâm lược của một đế quốc hùng mạnh, đã giành lại độc lập cho dân tộc, đem lại ruộng đất cho dân cày, đưa lại quyền dân chủ thực sự cho nhân dân”. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chẳng những đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta và các nước trên bán đảo Đông Dương; bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945; mà còn mở ra giai đoạn cách mạng mới, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.Trong Lời ghi trong sổ lưu niệm của Bảo tàng Điện Biên Phủ, Ngày 7 tháng 5 năm 1964, Người viết: “Trước đây 10 năm, chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ, anh dũng của quân và dân nước ta chống thực dân Pháp xâm lược và sự can thiệp của đế quốc Mỹ”.

2. Ý nghĩa thời đại của chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954

*

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã chứng minh một chân lý của thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi; đã thôi thúc và cổ vũ các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh đứng lên đấu tranh tự giải phóng, thoát khỏi ách xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Chính vì vậy, trong Báo cáo tại Hội nghị chính trị đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ và anh dũng của nhân dân cả nước ta, chống thực dân Pháp xâm lược và sự can thiệp của đế quốc Mỹ. Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay: Chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định thất bại, cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công”.

*

Chiến thắng Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ của nhân loại; giáng một đòn chí mạng vào nền móng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh sập thành lũy của chủ nghĩa thực dân cũ ở vị trí xung yếu nhất, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới. Tinh thần của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới nhất là các nước ở Châu Mỹ La-tinh, Châu Phi. Từ chiến thắng vang dội 5 châu, chấn động địa cầu ấy là cảm hứng bất tận để các nước Mỹ La-tinh (được gọi là “lục địa bùng cháy” hay “lục địa núi lửa”) vùng lên đấu tranh giành lại độc lập dân tộc nổ ra mạnh mẽ mà mở đầu là thắng lợi của cách mạng Cu-ba năm 1959 và sau đó là một cao trào đấu tranh đã phát triển mạnh mẽ, đấu tranh vũ trang nổ ra và giành thắng lợi ở nhiều nơi như Bô-li-vi-a, Vê-nê-xu-ê-la, Cô-lôm-bi-a... Đồng thời, cũng là ngọn cờ cổ vũ các nước thuộc địa, lệ thuộc ở Châu Phi đứng lên giành độc lập dân tộc. Năm 1960 được gọi là “Năm Châu Phi” vì có 17 nước châu Phi tuyên bố độc lập.

*

Chiến thắng Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ của nhân loại. Chiến thắng Điện Biên Phủ giáng một đòn chí mạng vào nền móng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh sập thành lũy của chủ nghĩa thực dân cũ ở vị trí xung yếu nhất, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới; báo hiệu sự thất bại chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa thực dân mới do đế quốc Mỹ cầm đầu. Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng chung của các nước trên bán đảo Đông Dương, chiến thắng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.

Đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã cổ vũ toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta quyết tâm thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thống nhất đất nước và cả nước độc lập đi lên chủ nghĩa xã hội. Ý nghĩa thời đại lớn lao này được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, dự đoán sẽ đi đến thắng lợi cuối cùng và trên thực tế đã trở thành hiện thực: “Với tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Điện Biên Phủ, từ nay về sau nhân dân miền Nam chắc sẽ thắng lợi hơn nữa. Muốn tránh một thất bại như ở Điện Biên Phủ và muốn khỏi mất thể diện, thì đế quốc Mỹ chỉ có một cách là chấm dứt ngay cuộc chiến tranh xâm lược, rút ngay quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, để nhân dân miền Nam Việt Nam tự giải quyết lấy vấn đề nội bộ của mình và thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam, Campuchia và Lào”.

Ngày nay, xu thế chung của thế giới là hoà bình, hợp tác và phát triển. Song đâu đó trên thế giới vẫn còn xảy ra những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường như: căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp lật đổ, khủng bố, khủng hoảng kinh tế toàn cầu… đang và sẽ tác động không nhỏ đến cách mạng Việt Nam. Tình hình thế giới và khu vực đặt ra những yêu cầu mới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi Đảng tiếp tục khơi dậy niềm tự hào dân tộc, kế thừa và phát huy cao độ những giá trị, ý nghĩa lớn lao và vô cùng quý báu của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, không ngừng đổi mới tư duy, tiếp tục đưa Việt Nam phát triển theo con đường mà Đảng và Bác đã lựa chọn, khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Xem thêm: Ngữ Văn 8 Lão Hạc - Hướng Dẫn Soạn Bài Lão Hạc Ngắn Gọn Và Đầy Đủ

65 năm đã trôi qua, Chiến dịch Điện Biên Phủ là một chiến dịch điển hình trong lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta đánh thắng quân viễn chinh Pháp có tiềm lực quân sự mạnh, vũ khí trang bị hiện đại cùng với sự giúp đỡ của Mĩ. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc với thắng lợi hoàn toàn thuộc về nhân dân Việt Nam. Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ không những ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son rực sáng nhất trong thế kỷ XX, mà ý nghĩa và tầm vóc của sự kiện lịch sử trọng đại này không hề phai mờ, trái lại, những bài học lịch sử vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều này được thể hiện rõ trong những nhận định, đánh giá khách quan, toàn diện của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khẳng định lại những tư tưởng ấy của Người, khi đánh giá về ý nghĩa, tầm vóc của Chiến thắng Điện Biên Phủ, Đảng ta nhận định: “Chiến thắng Điện Biên Phủ đã ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, một Đống Đa của thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một mốc son chói lọi, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân”./.