Tài liệu đính kèm:

Mộ của Hàn Mặc Tử trên đồi Thi Nhân- Ghềnh Ráng- Quy Nhơnb. Sự nghiệp sáng tác: - Bắt đầu bằng thơ cổ điển Đường luật, sau chuyển sang sáng tác theo khuynh hướng thơ mới lãng mạn. - Là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. - Phong cách thơ: là một thế giới nghệ thuật kỳ dị. Ở đó có sự đan xen, biến hóa của nhiều hình ảnh phức tạp, bí ẩn. Tuy nhiên đằng sau thế giới hình ảnh đó là một tâm hồn tràn ngập tình yêu đời, chan chứa khát khao sống.Những “nàng thơ” của Hàn Mặc Tử: Cô Trà (Thu Yến), Mỹ Thiện, Hoàng Hoa (Cúc), Mộng Cầm (Nghệ, cháu Bích Khê), Mai Đình (Lê Thị Mai), Ngọc Sương (chị Bích Khê), Thương Thương (Trần Thanh Địch giới thiệu)c.Tác phẩm chính: - Gái quê (1936) - Thơ Điên (1938) - Duyên kỳ ngộ (1939) -Quần tiên hội (1940) -Chơi giữa mùa trăng (1940)2. Tác phẩm: - Xuất xứ: Bài thơ được sáng tác năm 1938, in trong tập “Thơ Điên”, sau đổi thành “Đau thương”- Hoàn cảnh ra đời: Ban đầu bài thơ có tên “Ở đây thôn Vĩ Dạ” về sau đổi thành “Đây thôn Vĩ Dạ”. Theo một số tài liệu, bài thơ được gợi cảm hứng từ tấm bưu thiếp vẽ phong cảnh Huế có người chèo đò trên sông Hương với lời thăm hỏi chúc thi sĩ mau bình phục của Hoàng Thị Kim Cúc - một cô gái ở thôn Vĩ Dạ gửi cho ông khi ông đang dưỡng bệnh ở Quy Hòa. - Đề tài: Sự hòa quyện giữa tình yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương đất nước với tình yêu lứa đôi.- Bố cục: 3 phần Khổ 1: Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Khổ 3: vào buổi sớm. Hình bóng con người cùng những Bố cục hoài nghi mơ tưởng Khổ 2: Cảnh sông trong tâm nước đêm trăng và tâm trạng của trạng đầy khắc khoải thi nhân. của nhà thơ
II. Đọc hiểu văn bản 1. Khổ 1: Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ vào buổi sớm. “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” + Hình thức: câu hỏi tu từ. + “Về chơi”: thể hiện sự thân mật gần gũi, về thôn Vĩ về với chốn cũ người xưa, về nơi tác giả có rất nhiều kỉ niệm. + Sắc thái biểu cảm: Hỏi han, mời mọc, trách móc “Thôn Vĩ đẹp thế sao anh không về?”+ Chủ thể trữ tình: tác giả Thể hiện sự băn khoăn, day dứt trong tâm trạng của thi nhân. Câu hỏi thể hiện một ước ao được trở về thôn Vĩ trong sự mặc cảm và bất lực của thi nhân. Câu thơ còn được xem như một lời mở đầu, một cái kết để nhà thơ có thể đưa hồn mình về với thôn Vĩ một cách thật tự nhiên.Nhìn Cảnh Người vườn ai nắng hàng cau mướt quá Lá trúc che ngang nắng mới lên xanh như ngọc mặt chữ điền- Cảnh thôn Vĩ: Cau là cây cao nhất, cây đầu tiên đón ánh nắng Nắng trong vườn gợi lên vẻ đẹp hàng cau mảnh mai, thanh thoát, giản dị, giàu sức sống. cái nắng đầu tiên của một ngày gợi lên sự Nắng trong trẻo, tinh khôi, sự mới lên bắt đầu của một ngày mới.- Vườn thôn Vĩ - “Vườn ai” gợi cảm giác mơ hồ, bất định gây ấn tượng về một vẻ đẹp bí ẩn. - “Mướt quá” đây là một tính từ gợi tả cái vẻ mượt mà, mơn mởn xanh tươi, đồng thời thể hiện giọng điệu trữ tình mê đắm say sưa. - “Xanh như ngọc” là một hình ảnh so sánh rất tự nhiên, giản dị. Gợi một vẻ đẹp trong sáng và sự tươi tốt màu mỡ của làng quê thôn Vĩ.-Người thôn Vĩ - Lá trúc che ngang mặt chữ điền: Hình ảnh độc đáo gợi lên vẻ đẹp phúc hậu, sự thanh tú mềm mại và đầy đặn. à
Vẻ đẹp của người và cảnh hài hòa. à Gợi vẻ đẹp kín đáo, e ấp mà đôn hậu, thân thương.Cảnh vật trong khổ thơ đầu toát lên vẻ đẹp tinh khôi, thanh khiết, trong sáng tràn đầy sức sống và có sự hài hòa giữa cảnh và người, càng làm tăng thêm nỗi ước ao và niềm đắm say mãnh liệt được trở về với những kỉ niệm đã qua ở mảnh đất này.2. Khổ 2: Cảnh sông nước đêm trăng và tâm trạng ngóng trông đầy khắc khoải của nhà thơ: - Thời gian có sự dịch chuyển từ ngày sang đêm. - Gió, mây, sông nước, hoa được nhân cách hoá để nói tâm trạng buồn bã của con người. Cái ngược đường của gió, mây gợi sự chia ly đôi ngả, xa cách. Không gian trống vắng, cảnh vật như hờ hững với con người.“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?” - Hình ảnh thơ không xác định: “Thuyền ai”,“sông trăng” gợi lên cảm giác huyền ảo. - Câu hỏi tu từ ẩn chứa một nỗi mong chờ tha thiết, đồng thời cũng chứa đầy nỗi phấp phỏng hoài nghi => cảnh đẹp nhưng lại mang một nỗi buồn vô hạn
Khổ thơ thứ hai đã vẽ nên một bức tranh sông Hương nên thơ, huyền ảo, phảng phất tâm trạng u buồn, cô đơn của nhà thơ. Khổ thơ đã gieo vào lòng người sự cảm thông sâu sắc trước niềm đau của thi nhân.3. Khổ 3: Hình bóng con người cùng những hoài nghi mơ tưởng trong tâm trạng của thi nhân “Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn nhìn không ra” - Điệp ngữ “khách đường xa” kết hợp với nhịp điệu dồn dập nhấn mạnh nỗi xót xa, mặc cảm với cuộc đời. - Tác giả cảm giác như hình ảnh người con gái thôn Vĩ hiện ra trước mặt mình với chiếc áo màu trắng, màu trắng của tiềm thức, của sự chờ mong trong lòng tác giả.“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?” - “Ở đây” chính là thế giới nhà thơ đang tồn tại, đang từng giây, từng phút vật vã với cái chết, đó là cái thế giới lạnh lẽo mà nhà thơ luôn ngóng vọng ra ngoài. - Điệp từ: “ai” cho thấy sự hoài nghi, mơ tưởng trong tâm trí tác giả khi yêu đơn phương. Đại từ phiếm chỉ : ai / tình ai ? - Câu hỏi lửng lơ nửa như nghẹn ngào, nửa như trách móc. Chân dung nội tâm của tác giả: Khao khát yêu thương, đồng cảm. Câu thơ cuối dường như chính là câu trả lời cho câu thơ thứ nhất.III. Tổng kết 1. Nội dung - Bài thơ là một bức tranh toàn bích về cảnh vật và con người thôn Vĩ. Qua đó bộc lộ tình yêu đời, yêu người, niềm ham sống mãnh liệt mà đầy uẩn khúc của nhà thơ. 2. Nghệ thuật - Hình ảnh tưởng thơ độc đáo, đẹp, gợi cảm; ngôn ngữ trong sáng, tinh tế, giàu liên.
Bạn đang xem: Bài Giảng Đây Thôn Vĩ Dạ ”
Bạn đang xem: Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử hay nhất – Ngữ văn lớp 11 tại Trường THPT Kiến Thụy Đề bài: Bình giảng bài thơ “Đây thôn …

Bạn đang xem: Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử hay nhất – Ngữ văn lớp 11 tại Trường THPT Kiến Thụy
Đề bài: Bình giảng bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.
Bài giảng Đây thôn Vĩ Dạ – Cô Thúy Nhàn (giáo viên )
Ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? Cả một thế giới trăng trong thơ ông:
“Trăng nằm trên cành liễu
Đợi gió đông về thảnh thơi…”
(Bẽn lẽn)
“Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ
Cúi mặt xuống và uốn cong theo hình dáng cây liễu.”
(Xin hãy nhập hồn tôi)
“Trăng hoa leo chạm gối”
Gió lùa qua cửa nghiến chăn”.
(Đêm không ngủ)
Nhà thơ còn nói về thuyền trăng, sông trăng, sóng trăng… Cả một thế giới hư ảo, diệu kì. Thơ Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng, thể hiện một tâm hồn “say trăng” với tình yêu thiết tha với cuộc đời, vừa thực vừa mộng. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới (1932 – 1941). Với 28 tuổi đời (1912-1940), ông đã để lại cho nền thơ ca nước nhà hàng trăm bài thơ và một số vở kịch thơ đặc sắc. Thơ ông như chảy ra từ máu và nước mắt, với nhiều hình ảnh kinh dị. Chưa ai viết hay về mùa xuân và thiếu nữ (“Mùa xuân chín”), về xứ Huế đẹp và thơ mộng (“Đây thôn Vĩ Dạ”) như Hàn Mặc Tử.
“Đây thôn Vĩ Dạ” trích trong “Tuyển tập thơ điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về phong cảnh thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, đặc biệt là những cô gái duyên dáng, đa tình và đáng yêu. Hàn Mặc Tử viết về một tình yêu – tình yêu đơn phương, nồng nàn nên thơ, lung linh trong sáng và huyền ảo. Đoạn thơ thể hiện một nỗi bâng khuâng, một niềm khao khát hạnh phúc của nhà thơ đa tình, có nhiều nhân duyên với cảnh và người Vĩ Dạ.
Câu thơ đầu của khổ thơ đầu vừa “ngọt ngào” như một lời mời gọi, vừa vui mừng gặp gỡ, vừa nhẹ nhàng trách móc người thương bao nhớ nhung, chờ đợi. Giọng thơ nhẹ nhàng, đằm thắm, trìu mến: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Có rất xa. Những cảnh xưa người xưa thấp thoáng trong những vần thơ đẹp với nỗi nhớ da diết. Bao kỉ niệm ùa về trong hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc miệt vườn và con người xứ Huế mộng mơ:
“Nắng hàng cau mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang mặt chữ hoàn chỉnh”.
Cảnh được nhắc đến là một buổi bình minh tuyệt đẹp ở thôn Vĩ. Nhìn từ xa, nhà thơ đang say sưa ngắm những ngọn cau, những tàu cau lấp lánh dưới nắng mới, “nắng mới” rực rỡ. Hàng cau cao vút là hình ảnh quen thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Hàng cau như chào, như vẫy gọi.
Quên màu xanh ở đây đi. Nhà thơ sâu lắng thốt lên khi đứng trước một vườn Vĩ Dạ xanh mướt: “Vườn ai xanh như ngọc”. Sương đêm ướt đẫm cỏ cây hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non mơn mởn, óng ả dưới ánh mai hồng, trông “mượt” một màu xanh ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu điều hòa, con người cần mẫn chăm bón thì màu đất mới “xanh như ngọc”. Thiên nhiên rực rỡ, trẻ trung và tràn đầy sức sống. Nói về màu xanh ngọc bích, Xuân Diệu (1938) cũng đã viết: “Đổ trời ngọc bích qua kẽ lá…” (“Thơ tình”). Hai từ “vườn ai” gợi lên bao sự ngỡ ngàng, thất thần. Câu thơ thứ tư tả thiếu nữ bên khóm trúc trong vườn xuân: “Lá trúc che mặt phông”. Mặt trái xoan, mặt phấn son, mặt búp sen là vẻ đẹp của một mỹ nhân. Khuôn mặt chữ điền là khuôn mặt đầy đặn, vuông vức và phúc hậu. “Lá tre che ngang” là nét vẽ đặc sắc đã làm nổi bật vẻ đẹp của người con gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, đằm thắm. Hàn Mặc Tử đã hơn một lần nói về tre và những cô gái. Khóm tre như bóng mát xanh che chở cho một tình yêu đẹp đang chớm nở:
“Thầm thì với ai ngồi dưới lũy tre
Nghe có vẻ ngọt ngào và ngây thơ.”
(Mùa xuân đã chín)
Hai câu đầu, ba và bốn trong khổ thơ đầu tả hàng cau, tả nắng, tả vườn, tả tre và thiếu nữ với một cách phối màu nhẹ nhàng, thoáng đãng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh như ngọc…, mặt chữ điền). Cảnh và người ở Vĩ Dạ thật hiền hòa, thân thiện và dễ mến.
Vĩ Dạ – một ngôi làng nằm bên bờ Hương Giang, ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với con đò thơ mộng, vườn cây xanh tươi bốn mùa, hoa trái xum xuê. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng sau những hàng cau, rặng tre nhưng nơi đây vẫn thường hát bài nam ai, nam bình qua âm thanh huyền ảo, du dương của tiếng đàn tranh. Đây thôn Vĩ Dạ đẹp và thơ mộng. Hàn Mặc Tử đã tặng Vĩ Dạ bài thơ đẹp nhất bằng tất cả tình cảm yêu thương của mình. Đã bao năm rồi Huế và Vĩ Dạ xa cách. Tuy nhiên, cảnh vật và con người thôn Vĩ vẫn được nhà thơ bao dung, càng trở nên lung linh huyền ảo, thể hiện niềm mong mỏi tha thiết được trở về cố đô thăm lại cảnh xưa. Bức tranh tâm trạng ấy đã được thể hiện một cách tài tình qua bức tranh thôn Vĩ hữu tình, thơ mộng.
Khổ thơ thứ hai nói về cảnh mây trời, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu năm, sáu là bức tranh miêu tả gió, mây sông và hoa (hoa ngô đồng). Giọng thơ nhẹ nhàng, hơi buồn. Nghệ thuật tương phản tạo nên bốn cảnh vật hài hòa, cân đối, sinh động. Gió và mây lùi xa như tình yêu của nhà thơ, tưởng gần mà xa, xa lắm. Dòng sông Hương êm đềm trôi lặng lẽ, trong tâm trí nhà thơ trở nên “buồn thiu”. Những bông hoa ngô, nhẹ nhàng đung đưa trong gió. Nhịp điệu nhẹ nhàng, thơ mộng của miền sông Hương, núi Ngự được miêu tả thật tinh tế! Những ám chỉ lôi cuốn gợi lên bao câu hỏi mơ mộng. Mênh mông cách biệt… như trái tim, như khối óc thi nhân:
“Gió theo gió, mây theo mây”
Nước buồn, bông ngô đung đưa”.
Hai câu tiếp theo, nhà thơ tự hỏi “ai” hay tự hỏi mình khi nhìn thấy hay nhớ lại hình ảnh con thuyền mơ màng trên sông trăng. Dòng sông Hương quê tôi trở thành “sông trăng”. Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ đã làm nên bài thơ hay về sông Hương với những con thuyền ngủ dưới trăng. Nguyễn Công Trứ từng viết: “Gió trăng chứa đầy thuyền”. Hàn Mặc Tử cũng đóng góp cho thơ ca Việt Nam hiện đại một câu thơ thất ngôn độc đáo:
“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay?”.
Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn dòng sông trăng và con thuyền. Thuyền tôi hay “thuyền ai” vừa quen, vừa xa lạ. Chất thơ kỳ ảo trong “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là ở những chất liệu thơ ấy. Đoạn thơ miêu tả một hồn thơ rung động trước vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế miền Trung, thể hiện một tình yêu thầm kín, dịu dàng, mơ màng và thoáng chút buồn. Ở đây, bức tranh tâm trạng tràn ngập ánh trăng, thấm đẫm nỗi buồn cô đơn của khách đa tình.
Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm trạng của nhà thơ. Cùng thời, nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: “Thiếu nữ sông Hương – Làn da thơm là phấn, má hồng là son.”. Vĩ Dạ mưa nhiều, buổi sáng và buổi chiều rất nhiều sương mù. “Sương khói” trong Đường Thi thường gắn liền với tình yêu quê hương, ở đây sương khói đã làm mờ áo em trắng, nhìn hoài vẫn không nhận ra bóng dáng em. Người phụ nữ Huế thanh thoát, trong suốt, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ ấp úng, nghiền ngẫm. Ta biết Hàn Mặc Tử đã từng có một mối tình đơn phương rất đẹp với một cô gái Huế có tên là hoa khôi. Phải chăng nhà thơ đang nói về tình yêu này?
“Khách đường xa, khách đường xa,
Áo sơ mi của tôi quá trắng để nhìn thấy
Sương mù ở đây
Có ai biết chữ đậm không?”.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có…” Những ám chỉ, luyến láy ấy tạo nên một giai điệu sâu lắng, êm dịu, mênh mang. Khoảng cách và nỗi buồn chia ly dường như kéo dài trong không gian và thời gian vô tận. Người đọc càng thêm thương cảm cho nhà thơ tài hoa, đa tình nhưng kém may mắn, từng say đắm mối tình đơn phương mà suốt đời phải sống trong cô đơn, bệnh tật.
Xem thêm: Giải Vở Bài Tập Địa Lý Lớp 6 Bài 23 (Kết Nối Tri Thức): Sự Sống Trên Trái Đất
Cũng cần nói đôi lời về chữ “ai” trong bài thơ này. Cả bốn lần từ “ơi” hiện lên mơ hồ, ám ảnh: ”Vườn ai xanh như ngọc?” – ”Thuyền ai đậu bến sông trăng?” – ”Ai biết tình ai có đậm đà?”. nói về là một người đi xa, trong nỗi nhớ nhung, trong tuyệt vọng.. Nhà thơ luôn cảm thấy mình lạc lõng, lạc lõng trước mối tình đơn phương.. Nhà thơ luôn cảm thấy mình lạc lõng, lạc lõng trước một tình yêu đơn phương như có phai mờ theo sương khói?
Hàn Mặc Tử đã để lại cho chúng ta một bài thơ tình hay và cảm động. Cảnh và người, mộng và thực, nồng nàn và buồn bã, ngỡ ngàng và dửng dưng,… biết bao hình ảnh, cảm xúc đẹp mà buồn hội tụ trong ba khổ bảy chữ, câu văn vẹn toàn.
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ tình tuyệt tác. Màu xanh ngọc bích của vườn ai, thuyền ai cập bến sông trăng, màu trắng áo em như đưa ta về thôn Vĩ Dạ khói lửa, một thời đã xa, tìm bóng giai nhân, nhớ nhà. . Có tài thơ, đa tình nhưng bạc mệnh. Bức tranh tâm trạng trong “Đây thôn Vĩ Dạ” đọng lại mãi trong lòng ta. Nhà thơ Thu Bồn nói thay chúng tôi:
“Xin chào Huế khi bạn đến
Trong một ngàn lần tôi nhớ trong một giấc mơ
Tôi rất thật, nhưng mặt trời mờ
Xin đừng nhầm tôi với cố đô.”
(Từ biệt)
day-thon-en-da.jsp
Các bộ đề lớp 11 khác
Nhớ để nguồn bài viết này: Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử hay nhất – Ngữ văn lớp 11 của website baigiangdienbien.edu.vn