Về Chúng Tôi .sub-menu" data-toggle-type="slidetoggle" data-toggle-duration="250" aria-expanded="false">Show sub menu
Để mở đầu cho chuỗi bài viết về giao tiếp liên văn hóa trong quá trình du học, Linh sẽ khái quát những nét chính về các khái niệm giao tiếp, văn hóa và giao tiếp liên văn hóa. Qua đó giúp các bạn nắm những hiểu biết nền tảng để giải thích các hiện tượng xung đột văn hóa trong quá trình giao tiếp.

Bạn đang xem: Giao Tiếp Liên Văn Hóa By Lan Ngọc


Nội dung chính

Bạn đang xem: giao tiếp liên văn hóa là gì

Hãy tượng tượng bạn đang chơi trò chơi bóng bàn. Khi giao tiếp, người cung cấp thông tin sẽ đánh quả bóng thông tin dưới hình thức ngôn từ hoặc phi ngôn từ về phía người tiếp nhận và ngược lại. Trong giao tiếp nhiều hơn hai người, trò chơi sẽ phức tạp hơn khi nhiều người sẽ cùng lúc đánh quả bóng của họ về phía người tiếp nhận. Quá trình giao tiếp sẽ phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể và truyền tải các nội dung muốn truyền đạt giữa họ với nhau. Một cách khái quát, giao tiếp là quá trình trao đổi thông tin lẫn nhau bằng các hình thức diễn đạt ngôn từ hoặc phi ngôn từ.

Hiểu về khái niệm văn hóa có phần phức tạp hơn. Thời đại học, khi học về khái niệm “văn hóa”, tôi không còn nhớ các định nghĩa sau khi kết thúc bài kiểm tra ngoài một điều: có hơn 500 định nghĩa về văn hóa. Có lẽ tôi nên học về thống kê hơn là nghiên cứu văn hóa!

Tính phức tạp của khái niệm, sự đa dạng trong chuyên ngành và hướng nghiên cứu cũng như sự thiếu thống nhất giữa các nhà nghiên cứu khiến việc hiểu khái niệm văn hóa trở thành một thử thách. Khi viết cuốn sách này tôi đã phải lục tung các sách viết về giao tiếp liên văn hóa của các học giả phương Tây ở thư viện trường Đại học Quốc tế Nhật Bản và tôi không mấy bất ngờ khi nhận ra rằng mỗi sách có một định nghĩa khác nhau về văn hóa.

Tôi trở về với khái niệm của học giả Trần Ngọc Thêm với ngôn từ gần gũi và có tính khái quát cao, đây cũng là khái niệm được đa số các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam sử dụng: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ của các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”<1>.

Định nghĩa này xác định con người có vai trò chủ thể sáng tạo ra văn hóa. Sự sáng tạo này được thực hiện thông qua hai hoạt động cơ bản của con người trong quá trình tương tác với tự nhiên và xã hội là hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần, do đó văn hóa hàm chứa tính giá trị về mặt vật chất và tinh thần. Tích lũy dần từ đời này qua đời khác, các giá trị này phản ánh tính lịch sử hay nói cách khác là bề dày quá khứ của văn hóa. Hơn nữa, các giá trị vật chất và tinh thần không tách rời riêng rẽ mà liên quan chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống các giá trị, định hình tính hệ thống của văn hóa.

Dựa trên tiêu chí mục đích sử dụng, Trần Ngọc Thêm cho rằng văn hóa vật chất bao gồm những sản phẩm do hoạt động sản xuất vật chất của con người tạo ra để đáp ứng các nhu cầu vật chất như đồ ăn, đồ mặc, phương tiện đi lại,…còn văn hóa tinh thần bao gồm những sản phẩm do hoạt động tinh thần của con người tạo ra như tư tưởng, tín ngưỡng, nghệ thuật, lễ hội…

Tôi có chút băn khoăn về lý giải này bởi những sản phẩm thuần túy vật chất không đơn thuần chỉ có cái vỏ vật chất mà còn phản ánh giá trị tinh thần của cộng đồng tạo ra hoặc sử dụng nó. Đơn cử như món ăn, trong khi shushi phản ánh tinh thần yêu chuộng sự tinh tế, hài hòa, gần gũi với thiên nhiên của người Nhật thì bánh mì hamberger gợi nhắc đến lối sống công nghiệp với tinh thần tôn trọng thời gian vật chất của người Mỹ. Mà cho dù là bánh mì hamberger, giá trị của nó ở tiệm MacDonald tại Mỹ đơn giản chỉ là món ăn nhanh cho tầng lớp lao động thì tại Việt Nam bánh mì MacDonald có thể thỏa mãn nhu cầu hướng tới sự sang trọng, năng động, hợp thời của giới trẻ tầng lớp trung lưu.

Với người theo đạo Hồi, món ăn phải chế biến theo phương pháp halal (nghĩa là hợp pháp), phù hợp theo quy định đề ra trong kinh Coran. Thức ăn halal không chứa rượu hay chất gây nghiện, thực phẩm nguồn gốc thực vật hay động vật phải được xử lý theo đúng phương pháp đạo Hồi (chẳng hạn, người giết mổ động vật phải cầu nguyện trước khi giết thịt, các bộ phận ở đầu và cuống họng động vật phải bị cắt bỏ dứt khoát bằng dao sắc, đầu của động vật lúc bị giết thịt phải quay về hướng người Hồi giáo cầu nguyện). Ẩn chứa trong giới luật halal là một lối sống lành mạnh, tinh thần tuân thủ giáo lý và tôn thờ Allah của các tín đồ người Hồi.

Tôi nghiêng về cách tiếp cận của Trompenaars và Hampden-Turner <2> khi lý giải về các giá trị của văn hóa: Văn hóa có đa tầng lớp.

Lớp bên ngoài của văn hóa là lớp vỏ vật chất có thể nhìn, nghe, cảm thấy như ngôn ngữ, nhà cửa, món ăn, thời trang, âm nhạc, lễ hội,… Trong hình thái tảng băng trôi văn hóa thì đây chính là phần nổi phía trên mặt nước mà chúng ta có thể nhìn thấy, biểu đạt chỉ 10% lượng thông tin. 90% lượng thông tin còn lại được ẩn chứa ở lớp giữa và lớp cốt lõi của tảng băng trôi.

*

Theo John Medina, một nhà sinh học phân tử phát triển chuyên nghiên cứu về gen và cơ chế hoạt động của bộ não, người đặt nền móng thành lập hai viện nghiên cứu lớn về não người tại Mỹ đồng thời là tác giả của nhiều sách bán chạy về trí não, thì “Chúng ta không nhìn bằng mắt. Chúng ta nhìn bằng não”. Về mặt sinh học, những hình ảnh mà mắt nhìn thấy sẽ được mã hóa khi đưa đến bộ não, kết hợp với những thông tin đã được lưu trữ sẵn trong não để đưa ra nhận định. Với nền tảng học vấn, kinh nghiệm, đặc điểm giới tính, chuẩn mực, giá trị, niềm tin,… khác nhau, bộ não sẽ lựa chọn và phân tích ra sản phẩm nhận thức khác nhau. “Chúng ta thấy những gì bộ não bảo chúng ta thấy” chính là kết quả của quá trình này. <4>

Những đánh giá có tính khuôn mẫu về các nền văn hóa ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức của con người trong quá trình giao tiếp liên văn hóa. Việc khái quát những đặc điểm chung nhất của con người đến từ các nền văn hóa khác nhau sẽ hình thành các khuôn mẫu văn hóa, tuy nhiên phần lớn chúng ta tiếp nhận các đặc điểm khuôn mẫu này thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, sách báo, chuyện kể, dễ hình thành những hiểu biết sai hoặc định kiến thiếu tích cực về các nền văn hóa (chẳng hạn, người Nhật rất xã giao trong giao tiếp, người Trung Á nói nhiều và không sạch sẽ). Tuy các khuôn mẫu văn hóa giúp chúng ta có thông tin ban đầu về đối phương để giao tiếp, đó là nguyên nhân khiến ta nhận định sai các tín hiệu nhận được trong quá trình giao tiếp.

By Linh Bùi

Bản thảo đầu tiên: Niigata, Nhật Bản, tháng 6/2017

Chỉnh sửa và đăng: Đà Nẵng, tháng 7/2019

<1> Trần Ngọc Thêm. 1999. Cơ sở Văn hóa Việt Nam. Hà Nội: NXB Giáo dục.

<2> Trompenaars, A., & Hampden-Turner, C. (1998). Riding the waves of culture: Understanding cultural diversity in global business (2nd ed.). New York; Tokyo: McGraw-Hill.

<3> Cooper, P. (. J. )., Calloway-Thomas, C., 1943, & Simonds, C. J. (2007). Intercultural communication: A text with readings. Boston, Mass: Pearson Allyn & Bacon.

Xem thêm: Giải Chi Tiết Đề Thi Thpt Quốc Gia Môn Toán 2018 (Mã Đề 101)

<4> Medina, J., 1956. (2014). Brain rules: 12 principles for surviving and thriving at work, home and school (2nd ed.). Seattle, Wash: Pear Press. Sách được dịch sang tiếng Việt với tựa đề Luật Trí Não – 12 quy luật để tồn tài và phát triển ở nơi làm việc, ở nhà và trường học do Alpha book phát hành năm 2014.