NDĐT - Thắng lợi Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 do Trung ương Đảng, Bộ Chính trị - đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh, trực tiếp lãnh đạo và chỉ đạo cụ thể trên tất cả các phương diện chính trị, quân sự và ngoại giao, trong nước và quốc tế.
Bạn đang xem: Người lãnh đạo chiến thắng điện biên phủ liên quân
![]() 1. Phương châm “đánh chắc tiến chắc” Ngay từ tháng 1-1953, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ tư khoá II từ ngày 25 tới ngày 30 để đưa ra các quyết sách quan trọng về cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954. Trong Báo cáo khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích sáng rõ tình hình thế giới và trong nước, đồng thời đề ra những nhiệm vụ cụ thể trong kháng chiến, kiến quốc. Cùng với sự khẳng định những mặt tiến bộ của quân đội ta sau những lớp chỉnh huấn, Bác Hồ cũng đã thẳng thắn phê bình: “Tuy vậy, một số đơn vị còn mắc những khuyết điểm như: ham đánh to, ăn to, chủ quan khinh địch, tự kiêu tự mãn, tổ chức quá kềnh càng, chế độ tài chính không chặt chẽ, ham chuộng hình thức, cán bộ chưa biết thương yêu chiến sĩ như anh em ruột thịt… Từ nay quân đội ta phải quyết tâm sửa đổi những khuyết điểm ấy”<1>. Trong “chỉ đạo kháng chiến và chính sách quân sự”, Người yêu cầu phải làm 10 việc cụ thể, trong đó có: “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội” và “xây dựng pháo binh.”<2> Cũng tại phiên khai mạc Hội nghị Trung ương bốn khoá II, Tổng Bí thư Trường Chinh đã trình bày Báo cáo của Trung ương Đảng, trong đó xác định rõ quan điểm chỉ đạo và phương châm đánh chắc, tiến chắc cho toàn bộ cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954: “Về vấn đề chỉ đạo chiến tranh, phương châm chung của cuộc chiến tranh giải phóng của ta là trường kỳ kháng chiến tự lực cánh sinh. Ta không chủ quan, khinh địch, không nóng vội, không mạo hiểm. Đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Chắc thắng thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng. Không chắc thắng thì kiên quyết không đánh. Nếu chủ quan, mạo hiểm mà một lần thua nặng, thì sẽ tai hại lớn. Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, nên nói chung ta chỉ có thắng chứ không được bại, vì bại thì hết vốn… Bởi vậy, về chiến lược, chủ lực của ta phải lấy vận động chiến làm chính, nhưng vận động chiến cơ động, linh hoạt. Dùng vận động chiến cơ động, linh hoạt tiêu diệt từng miếng một của địch, không phải đánh ào ạt, tiêu diệt luôn một lượt.”<3> Như vậy, phương châm tác chiến “đánh chắc, tiến chắc” và “dùng vận động chiến cơ động, linh hoạt tiêu diệt từng miếng một của địch, không phải đánh ào ạt, tiêu diệt luôn một lượt” cho toàn bộ chiến cuộc Đông - Xuân 1953-1954 đã được Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh xác định và chỉ đạo ngay từ đầu năm 1953. “Đồng chí Hưng (Võ Nguyên Giáp) và Ninh, Báo cáo ngày 12 tháng Mười của các anh, đã nhận được. Sau khi Bộ Chính trị nghiên cứu, trả lời như sau: Các đồng chí vẫn nên làm theo tinh thần bức điện ngày 7 tháng Mười của đồng chí Thận… Tóm lại, dù sao cũng phải chuẩn bị đầy đủ, đánh ăn chắc, tiến ăn chắc, không đánh thì thôi, đánh thì phải thắng.”<4> Quan điểm chỉ đạo “đánh ăn chắc, tiến ăn chắc” của Tổng Bí thư Trường Chinh được hình thành trong suốt quá trình lãnh đạo thực hiện chủ trương kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ dựa vào sức mình là chính đã được nêu lên từ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trong tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi - ấn hành năm 1947. Đó là sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình xây dựng và chiến đấu của quân và dân ta. Quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư Trường Chinh cho chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954: “đánh ăn chắc, tiến ăn chắc” và “dùng vận động chiến cơ động, linh hoạt tiêu diệt từng miếng một của địch, không phải đánh ào ạt, tiêu diệt luôn một lượt” chính là hệ quả logic của quá trình tổng kết thực tiễn chiến đấu thành công và chưa thành công của quân đội ta qua các chiến dịch. Đồng thời, đó cũng là sự khái quát lý luận quân sự cách mạng Việt Nam trên cơ sở kế thừa di sản tư tưởng quân sự độc đáo của dân tộc như “dĩ đoạn binh, chế trường trận” (Trần Quốc Tuấn), “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” (Nguyễn Trãi), v.v. kết hợp với tham khảo kinh nghiệm quốc tế, vận dụng sáng tạo phù hợp với điều kiện “chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều.” Về vai trò lãnh đạo và chỉ đạo công tác quân sự của Tổng Bí thư Trường Chinh trong kháng chiến chống Pháp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Bác Hồ là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng đề ra đường lối cụ thể, chỉ đạo cụ thể về lý luận với cuốn Kháng chiến nhất định thắng lợi, là do anh Trường Chinh. Trên cương vị Tổng Bí thư, anh Trường Chinh không chỉ chú trọng chỉ đạo những công tác chung mà còn rất coi trọng chỉ đạo công tác quân sự. Có nhiều hội nghị quân sự anh Trường Chinh trực tiếp chủ trì với cương vị thay mặt Ban Chấp hành Trung ương lúc bấy giờ.”<5> 2. Chuẩn bị hướng chiến lược Tây Bắc Nhiệm vụ hiện nay là phải làm những đường tốt cần thiết để đảm bảo việc vận chuyển quân sự, để sẻ bớt gánh nặng vận chuyển cho dân và đồng thời cũng để mở rộng việc vận chuyển kinh tế. Do đó cấp ủy Liên khu Việt Bắc và các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Bắc Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Sơn La, Phú Thọ, Liên khu 4 và tỉnh Thanh Hóa, Liên khu 3 và tỉnh Hòa Bình, các cấp ủy phải tăng cường việc lãnh đạo công tác đường cầu, điều động những cán bộ tích cực, có năng lực phụ trách các công tác ấy để thực hiện cho kỳ được kế hoạch…”<6> Từ các địa danh được nêu trong Chỉ thị này của Ban Bí thư, có thể thấy rõ ý định của Bộ Chính trị về hướng tiến công chiến lược của chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 là khu vực rừng núi phía Bắc gần với Lào và Trung Quốc. Do có kế hoạch sát đúng từ rất sớm và nhờ sự chỉ đạo cụ thể, sát sao của Bộ Chính trị và Ban Bí thư, nên ta đã chủ động triển khai xây dựng được các tuyến đường cần thiết, bảo đảm vận chuyển hậu cần phục vụ cho Mặt trận Điện Biên Phủ sau này. Cùng với việc lãnh đạo và chỉ đạo sửa chữa, xây dựng mới và hoàn thiện các tuyến đường giao thông, cầu phà vận chuyển bảo đảm hậu cần cho mặt trận trọng điểm, tháng 7-1953, Bộ Chính trị đã quyết định thành lập Ủy ban chi viện tiền tuyến, nhằm huy động tối đa sức người, sức của của hậu phương, bảo đảm các nhu cầu vật chất cho chiến trường trọng điểm sắp tới.<7> Vấn đề đặt ra là nơi nào sẽ là chiến trường trọng điểm của chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954? Cuối tháng 9-1953, Bộ Chính trị họp bàn về nhiệm vụ quân sự chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954. Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp thay mặt Tổng Quân ủy trình bày hai phương án tác chiến: “một là tập trung toàn bộ hoặc phấn lớn chủ lực đối phó với địch ở đồng bằng Bắc Bộ; hai là điều động lực lượng mở các cuộc tiến công trên nhiều hướng chiến trường để phá kế hoạch tập trung lực lượng cơ động của địch - được coi là xương sống của Kế hoạch Navarre.”<8> Vì hành động của địch chưa rõ rệt, Bộ Chính trị nhấn mạnh phương châm: “tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt.” Quán triệt quan điểm chỉ đạo tác chiến của Hội nghị Trung ương 4 khóa II, tháng 1-1953, Nghị quyết Bộ Chính trị đã khẳng định các nguyên tắc chỉ đạo chiến lược và tác chiến là: tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta; đánh ăn chắc, đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt; chọn nơi địch sơ hở mà đánh, chọn nơi địch tương đối yếu mà đánh; giữ vững chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng. Đồng thời, Bộ Chính trị đã quyết định chọn hướng chính là Tây Bắc, các hướng khác là hướng phối hợp, nhằm tiêu diệt quân địch còn chiếm đóng Lai Châu, giải phóng hoàn toàn khu Tây Bắc.<9> Nghị quyết này của Bộ Chính trị đã được quán triệt rất sớm tới các cấp, các ngành để mở đường đi tới những thắng lợi lịch sử trong đông xuân 1953-1954.<10> Sau Hội nghị Bộ Chính trị vào cuối tháng 9-1953, Bộ Chính trị và Ban Bí thư đã tiếp tục lãnh đạo và chỉ đạo các cơ quan chức năng và các địa phương triển khai khẩn trương các công tác chuẩn bị chiến trường, tổ chức lực lượng, bảo đảm hậu cần cung cấp phục vụ chiến trường trọng điểm theo phương châm chuẩn bị lực lượng và bảo đảm hậu cần, kỹ thuật phải đi trước một bước. Trên thực tế, Tổng Bí thư Trường Chinh đã dự liệu và chỉ đạo triển khai công tác này từ tháng 4-1953. 3. Chỉ đạo Chiến dịch Điện Biên Phủ Theo chỉ đạo của Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy, Bộ Tổng tư lệnh đã ra lệnh cho Đại đoàn 316 tiến lên Tây Bắc, một bộ phận của các Đại đoàn 325 và 304 tiến sang Trung Lào. Được tin quân chủ lực của ta tiến lên Tây Bắc, Tổng Chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương - tướng Henrry Navarre đã lập tức cho quân nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ và điều lực lượng ở Bắc Bộ sang đứng chân ở Trung Lào với hy vọng giữ Tây Bắc và che chở cho Thượng Lào. Một tình huống chiến lược mới đã xuất hiện: địch bị động đối phó và đã chọn lòng chảo Điện Biên Phủ để xây dựng tập đoàn cứ điểm chuẩn bị cho trận đánh quyết định cuối cùng.<12> Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh”<15>, và căn dặn: “Tướng quân tại ngoại”. Trao cho chú toàn quyền. Có vấn đề gì khó khăn, bàn thống nhất trong Đảng ủy, thống nhất với cố vấn thì cứ quyết định, rồi báo cáo sau.”<16> “1. Ở Điện Biên Phủ địch có 13 tiểu đoàn, bố trí thành tập đoàn cứ điểm... 2. Căn cứ vào địch tình như vậy, kế hoạch tác chiến của ta là tập trung tuyệt đối ưu thế binh hỏa lực từ phía tây đột phá, đánh nhanh vào tung thâm Mường Thanh, đồng thời từ phía đông giáp công… 3. Kế hoạch đó là đúng Vì chúng ta tập trung binh hỏa lực mạnh nhất của ta đánh vào chỗ sơ hở nhất và quan trọng nhất của địch…”<17> “Kính gửi: Hồ Chủ tịch, đồng chí Trường Chinh và Chính trị Bộ Chúng tôi đã nghiên cứu chủ trương tác chiến mới của ta ở Điện Biên Phủ và chủ trương quân sự của ta trên các chiến trường toàn quốc với đồng chí Quốc, nay xin phân bốn điểm báo cáo như sau: 1. Chủ trương tác chiến mới ở Điện Biên Phủ Ngày 25, bộ đội ta đã đến đủ ở vị trí tập kết, phần lớn pháo binh cũng đã vào trận địa. Chúng tôi nghiên cứu lại lần cuối cùng tình hình địch ta để ra lệnh nổ súng thì nhận thấy: a) Địch tăng đến 15 tiểu đoàn, một số pháo, sự bố trí ở phía bắc và tây đã mạnh hơn trước; vị trí Hồng Cúm ở phía nam trước chỉ có 2 tiểu đoàn thì nay có 4 tiểu đoàn, thêm 12 khẩu lựu pháo, có trường bay mới làm, biến thành một tập đoàn cứ điểm thứ hai để yểm hộ cho Mường Thanh. b) Lựu pháo và cao pháo của ta bố trí ở Bắc và Tây Bắc chỉ hợp với kế hoạch đánh nhanh, không hợp với kế hoạch đánh từng bước, vì từ đường ôtô kéo vào phải dùng trên 1 đại đoàn bộ binh kéo trong 8 đêm (trước báo cáo là chỉ cần 2 đêm), nếu chiến sự phát triển không thuận lợi thì tiến lui đều khó. c) Việc chuẩn bị về mọi mặt đều phải tăng cường mới bảo đảm đánh lâu được. Chúng tôi nhận thấy đối với một kẻ địch đã tăng cường như ở Điện Biên Phủ thì phải dùng cách đánh tiêu diệt từng bước, trong giai đoạn đầu tiêu diệt sinh lực chúng ở ngoại vi, đồng thời tìm cách tiêu hao chúng, khống chế sân bay để hạn chế hoặc triệt đường tiếp tế của chúng trong một thời gian khá dài. Vì vậy, chúng tôi quyết định: Chính trịQuốc phòng - An ninh Đa phương tiện Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Kinh tếXã hội Văn hóa Phóng sự - Điều tra Giáo dục - Khoa học Pháp Luật Bạn đọc Y tếThể Thao Quốc tế Chính trị Quốc phòng - An ninh Đa phương tiện Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Kinh tếXã hội Văn hóa Phóng sự - Điều tra Giáo dục - Khoa học Pháp Luật Bạn đọc Y tếThể thao Quốc tếDu lịch Tư liệu - Hồ sơ ![]() Dưới sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương (QUTƯ), Bộ Quốc phòng, quân và dân ta đã đập tan cuộc tập kích đường không chiến lược của đế quốc Mỹ, làm nên Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” cuối năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải chấp nhận ký Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Thắng lợi đó tiếp tục khẳng định tài thao lược của Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp khi ông trực tiếp chỉ đạo xây dựng “thế trận phòng không nhân dân”-một phát triển mới của chiến tranh nhân dân riêng có ở Việt Nam.Chuẩn bị đọ sức với "pháo đài bay" B-52 Từ đầu năm 1965, cùng với đưa quân vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam Việt Nam, Mỹ cũng điều máy bay B-52 từ các căn cứ không quân ở Thái Bình Dương tiến hành những phi vụ oanh tạc miền Bắc với cường độ xuất kích ngày càng tăng. Cùng với đó, Mỹ in truyền đơn quảng bá về uy lực của máy bay chiến lược B-52 hòng đe dọa tinh thần, làm nhụt ý chí chiến đấu của quân và dân ta. Trước hành động leo thang chiến tranh của đế quốc Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Sớm muộn gì đế quốc Mỹ cũng đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua... Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”(1). Căn cứ vào dự báo của Người, trên cương vị Bí thư QUTƯ, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu (BTTM) QĐND và Quân chủng Phòng không-Không quân (PK-KQ) tìm cách khắc chế máy bay chiến lược của không lực Hoa Kỳ. Là vị tướng luôn coi trọng tổng kết, lấy thực tiễn chiến trường để bổ sung lý luận, nghệ thuật tác chiến, nên tháng 5-1966, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ đạo BTTM lệnh cho Trung đoàn Tên lửa 238 (Sư đoàn 363, Quân chủng PK-KQ) cơ động vào Vĩnh Linh (Quảng Trị), phối hợp với bộ đội radar, trinh sát điện tử, không quân... nghiên cứu tính năng kỹ thuật, đặc điểm và quy luật hoạt động của máy bay B-52. Tại cuộc họp tháng 9-1971, Bộ Chính trị và QUTƯ nhận định: Năm 1972, hoặc là địch sẽ rút nếu đạt được giải pháp; nếu chưa, địch có thể tập trung không quân đánh phá. Ta cần có biện pháp đề phòng. Ngay sau cuộc họp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị: "B-52 không chỉ đánh ở miền Nam. Đến mức độ nào đó, chúng có thể đánh vào Thủ đô Hà Nội. Quân chủng PK-KQ phải nghiên cứu kỹ đối tượng này"(2). Bộ đội cao xạ, radar, tên lửa và không quân được lệnh triển khai huấn luyện chiến đấu theo các phương án đã được kết luận. Một số trận địa tên lửa, trận địa cơ động cho pháo cao xạ và sân bay dã chiến được bí mật xây dựng. Dân quân, tự vệ Hà Nội và một số thành phố được bổ sung hỏa lực bắn máy bay. Công tác bảo đảm quan sát, thông tin được tăng cường. Tháng 6-1972, thực hiện chỉ đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, hội nghị chuyên đề đánh máy bay B-52 được tổ chức. Từ thực tiễn chiến đấu đánh B-52 ở địa bàn Nam Quân khu 4, các ý kiến tại hội nghị đã chỉ ra hạn chế của máy bay B-52. Những yếu tố: Phải cơ động hợp lý, phòng tránh kịp thời, có giải pháp khắc phục nhiễu, tên lửa cố gắng đánh trước lúc B-52 cắt bom... đã được hội nghị bàn thảo kỹ. Đến tháng 10-1972, tập tài liệu "Cách đánh B-52" được hoàn chỉnh, trở thành cuốn cẩm nang đánh B-52 cho bộ đội phòng không.
Trong thời gian này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng chỉ đạo BTTM giao Cục Tình báo chủ trì cùng với Quân chủng PK-KQ và cơ quan chuyên môn khai thác thông tin từ nhiều nguồn, trong đó có cả các phi công Mỹ bị bắt để có những tư liệu liên quan đến máy bay B-52, phục vụ yêu cầu tác chiến; chỉ đạo Quân chủng PK-KQ xúc tiến nghiên cứu cải tiến và sử dụng trang bị, vũ khí, sử dụng kết hợp nhiều loại radar, khí tài quang học với điện tử, điều chỉnh độ nhạy của đầu đạn tên lửa để có thể bắn rơi tại chỗ B-52. Cục Tình báo, Cục Quân lực, Binh chủng Thông tin liên lạc cùng Quân chủng PK-KQ phối hợp giải quyết các vấn đề bảo đảm trinh sát kỹ thuật, sức kéo, thông tin, quân số. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng chỉ đạo nghiên cứu các hướng tiến công chủ yếu của địch. Từ những nguồn tin, từ quy luật hoạt động của không quân Mỹ, chúng ta đi đến nhận định máy bay B-52 sẽ bay vào theo 5 hướng chủ yếu là: Tây Bắc và Đông Bắc xuống, từ Tây Nam vào, từ Nam và Đông Nam lên. Trong 12 ngày đêm đánh phá Hà Nội, 70% số máy bay địch đều lợi dụng địa hình, địa vật bay hướng Tây Bắc xuống. Phán đoán chính xác hướng tiến công, nhất là hướng tiến công chủ yếu, giúp ta có biện pháp sử dụng các lực lượng hợp lý, lập thế trận hiểm hóc để đánh thắng địch. Đây là cơ sở quan trọng để BTTM và Quân chủng PK-KQ bố trí đội hình các trung đoàn tên lửa tập trung đánh B-52 trên các hướng Tây Bắc, Tây Nam, phía Nam Hà Nội. Lực lượng không quân sử dụng Mi Đánh gục uy danh không lực Hoa Kỳ Trong những ngày chiến dịch, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp luôn có mặt tại Tổng hành dinh, chỉ đạo các đơn vị nâng cao công tác hiệp đồng, nhanh chóng thu thập các nguồn tin, bảo đảm trận địa tên lửa để đánh được liên tục; đốc thúc khẩn trương lắp ráp đạn. Đại tướng cũng yêu cầu các đơn vị phải tiết kiệm đạn, đạn tên lửa chỉ được dùng để đánh B-52. Đại tướng trực tiếp đến thăm các đơn vị tên lửa ở Chèm, Yên Nghĩa, thăm Sở chỉ huy Quân chủng PK-KQ ở Núi Trầm (Chương Mỹ, Hà Tây); cùng Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng đến thăm nhân dân khu phố Khâm Thiên sau khi bị máy bay B-52 ném bom. Sự có mặt của Đại tướng đã tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân quyết tâm chiến đấu đập tan uy danh “pháo đài bay” B-52. Nhận định về chiến thắng, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp cho rằng: “12 ngày đêm chiến đấu tiêu diệt máy bay B-52 cuối năm 1972 là một chiến công nổi bật. Lần đầu tiên ta tổ chức và thực hiện thành công một chiến dịch phòng không quy mô lớn đánh thắng cuộc tập kích của không quân chiến lược Mỹ bằng một trận tiêu diệt chiến giòn giã, gây cho không quân Mỹ những tổn thất nặng nề nhất trong lịch sử của nó”(3). Sau gần 70 năm đưa vào sử dụng, máy bay B-52 đã tham chiến ở nhiều nơi trên thế giới và nay vẫn là con bài chiến lược của không quân Hoa Kỳ... nhưng chỉ duy nhất bị QĐND Việt Nam bắn hạ. Đó là thắng lợi của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, trong đó có vai trò của Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp khi đã chỉ đạo thực hiện thành công “chủ trương toàn dân đánh máy bay địch, lấy lực lượng phòng không trong ba thứ quân làm nòng cốt”(4), tạo nên phát triển mới nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam. ---------------- (1) Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Hồ Chí Minh biên niên sự kiện quân sự (1919-1969), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2011, tr.566 |