Giới thiệu
Tin tức sự kiện
Du lịch Hải Hậu
Di tích lịch sử
Hội đồng nhân dân
Nhiệm kỳ 2021-2026HỆ THỐNG VĂN BẢNThủ tục hành chính

I.THỜI KỲ NĂM 1945 TRỞ VỀ TRƯỚC

1.Trần Vu: Tênthuỵ là Phúc Đức, phả chép là cháu đời thứ 12 Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc
Tuấn. Sinh không rõ năm nào. Quê cũ: Thôn Lương Nội, xã Tương Đông, huyện Tây
Chân, phủ Thiên Trường. Cụ Bà họ Mai, hiệu Từ Quang, quê ở làng Bát Tràng.

Bạn đang xem: Các nhân vật lịch sử việt nam mà bạn

Saukhi được vua Lê phong chức Dinh Điền phó sở sứ, cụ Trần Vu cùng 3 cụ người lànglà Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập cùng con cháu xuống khai khẩn vùng bãi bồi, lậpnên xóm Phú Cường, sau là Quần Cường ấp, mảnh đất đầu tiên của huyện Hải Hậungày nay.

Năm1917, Đinh Tỵ, Khải Định thứ 2 sắc phong: Dực bảo trung hưng linh phù tôn thần.

Năm 1924, Giáp Tý, Khải Định thứ 9, gia phong Quang ÝTrung Đẳng Thần.

Năm1925, Ất Sửu, lại gia phong 2 chữ Đoan Túc.

Cụqua đời vào ngày 22/3 âm lịch. Lăng mộ xây hình vuông, ở giữa là Long đình. Mặt
Đông Long đình có tấm bia đá lớn. Tên bia “Quần Anh Thuỷ Tổ khảo Trần Công mộbi ký” nghĩa là: “Bia ghi mộ thuỷ tổ ông họ Trần của Quần Anh”. Văn bia do cụ
Nghè Đỗ Tông Phát soạn năm 1873. Nội dung nói về thân thế sự nghiệp của Trần
Thuỷ tổ cùng 3 Thuỷ tổ khai sáng Quần Anh.

2. Vũ Chi: Thuỷ Tổ Vũ Chi còn gọi là Vũ Uy, Vũ Duy Uy, tự là Chính
Tâm, duệ hiệu là Vũ Đại Lang sinh sống ở làng Cao Mật, nay thuộc xã Vĩnh Thành,huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Quê gốc của Thuỷ Tổ Vũ Chi ở làng Mộ Trạch,tỉnh Hải Dương. Khoảng năm 1408, ông dời đến làng Cao Mật để sống.

Văn bia Tổ tích bi ký do cử nhân Vũ Luyện soạn năm 1925chép (dịch) “Hoàng Thuỷ tổ, triều tiền Lê là Phó ba đại tướng quân (<1>),hiệu là Vũ Đại Lang, tự là Chính Tâm, thuộc dòng họ Vũ, một dòng họ có tiếngtăm ở xã Tương Đông. Đức Thuỷ tổ đã từng phò vua giúp nước nên được thụ phonglà quan võ của triều đình… Thời Lê Thuận Thiên (1428) nơi đây là bãi bồi rộngước chừng vài vạn mẫu… Tổ ta cùng 3 tổ Trần, Hoàng, Phạm đến đây khai hoang lậpnghiệp”.

Trongquá trình khẩn hoang, công việc đắp đê khai thông sông ngòi, cải tạo đồng ruộngđều do Thủy tổ Vũ Chi trực tiếp đảm nhiệm. Ông đã chỉ huy nhân dân đắp đê Đông,đê Nam (đê Hồng Đức)…khoanh vùng ngăn nước mặn. Cùng với đắp đê, Thuỷ tổ Vũ Chicòn cho cải tạo ngòi, lạch, đào sông Xẻ dẫn nước ngọt về thau chua, rửa mặnphục vụ canh tác làm cho đất đai được mở rộng, lúa khoai tươi tốt, đời sống cưdân ngày càng sung túc.

Vớinhững công lao to lớn đó, năm 1917, Đinh Tỵ, là năm Khải Định thứ 2, sắc phong
Dực bảo trung hưng linh phù tôn thần.

 Năm 1925, Ất Sửu,là năm Khải Định thứ 9, gia tặng Quang ý trung đẳng thần.

 Để ghi nhớ cônglao của các vị Tổ đã có công đầu trong việc khai hoang, lấn biển thành lập làngxã, nhân dân suy tôn là “Tứ Tính, Cửu Tộc” và lập đền thờ.

3.Hoàng Gia:Thuỷ Tổ Hoàng Gia có miếu hiệu là: Thuỷ tổ Hoàng Công Tư Ngộ Phúc hiệu niêntăng hầu phủ quân. Nghĩa là Thuỷ Tổ Ngộ Phúc tên huý thường gọi Hoàng Gia.Không rõ năm sinh. Tương truyền rằng, họ Hoàng có nguồn gốc thuộc Thục Phán An
Dương Vương. Sau khi cuộc kháng chiến của quân dân Âu Lạc dưới sự lãnh đạo củavua Thục (vua nước Âu Lạc) bị thất bại trước sự xâm lược của Triệu Đà. Con cháucủa dòng dõi An Dương Vương tránh sự diệt tộc đã đổi sang họ Hoàng (mang dấu ấnhọ vua), một nhánh nhỏ ở lại huyện Đông Anh, một dòng lớn chạy về Chương Mỹ và
Thường Tín… Sau đó, dòng dõi của Thuỷ tổ Hoàng Gia đã từ Thường Tín về Tương
Đông huyện Nam Chân (Nam Trực ngày nay).

Trong
Tứ Tổ, Thuỷ Tổ Hoàng Gia được phân công lo việc học hành, dựng ngọn cờ Nho học,mở trường dạy chữ, nâng cao dân trí.

Năm1917, Định Tỵ, Khải Định thứ 2, sắc phong: Dực bảo trung hưng linh phù tônthần.

Năm1925, Ất Sửu, Khải Định thứ 10, gia phong Đoan Túc Trung Đẳng Thần.

Nhândân Quần Anh lập đền thờ, con cháu lập Tổ đường.

4.Phạm Cập: Theocác sách “Quần Anh địa chí”, “Quần Anh tiểu sử”, “Truyện cũ làng Anh”, gia phảhọ Phạm và tư liệu văn bia các di tích thì Thuỷ tổ Phạm Cập, tự là Chính Trực,quê ở Tương Đông là một trong 4 vị Tổ khai sáng đất Quần Anh.

Trảiqua một thời gian dài khai phá với biết bao mồ hôi công sức, Tứ tổ đã tạo dựngđược một vùng đất bồi rộng rãi, lập thành xóm Phú Cường, sau đổi thành Quần
Cường ấp. Thuỷ tổ Phạm Cập được phân công gánh vác trọng trách làm quản bạ,quản lý ruộng đất và nhân khẩu. Đất đai ngày càng rộng lớn, nhân dân ngày càngđông đúc, năm 1511 Quần Cường ấp được thăng lên thành xã Quần Anh.

Vớicông lao to lớn đó, ngày 25/7 niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924) đã có Đạo sắcghi rõ (dịch) “Sắc cho tỉnh Nam Định, huyện Hải Hậu, tổng Quần Phương, cả tổngphụng thờ vị tổ khai sáng, Chính Trực Phạm Cập đại lang linh thiêng, rõ rệt…Giaphong là: Dực bảo trung hưng linh phù chi thần”.

Đểghi công ơn Thuỷ tổ Phạm Cập, nhân dân Quần Anh lập đền thờ, con cháu lập Tổđường thờ phụng.

5.Vũ Duy Hoà:
Duy Hoà quê ở xã Mộ Trạch, huyện Đường An, phủ Hạ Hồng (nay là xã Tân Hồng,huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương). Ông thuộc dòng dõi Vũ Hồn, vốn từ đất Phúc
Kiến (Trung Quốc) dời về phương Nam từ đời Đường và định cư tại Mộ Trạch. Ôngsinh vào khoảng năm Bính Ngọ (1546). Trong thời kỳ làm quan, ông luôn tận tâmvới công việc, được triều đình nhà Lê nhất mực tin dùng và giao cho nhiều trọngtrách.

Vũ Duy Hoà còn là người có nhiều đóng góp tài năng và côngsức cùng nhân dân khai hoang mở đất vùng đất phía Tây sông Hà Lạn thuộc huyện
Hải Hậu.

Năm Giáp Ngọ, niên hiệu Quang Hưng thứ 17 (1594), ông đượcvua Lê giao giữ chức An phủ sứ trấn Sơn Nam. Năm Đinh Dậu (1597), An phủ sứ Vũ
Duy Hoà đã đem gia đình và cộng sự xuống vùng đất ven biển thuộc cửa Lạn Môn cótên gọi là Cẩm Hà Trang, ông và các cộng sự nhận thấy vùng đất này thuận tiệncho việc khai hoang mở đất lâu dài. Ông đã cùng con cháu 5 dòng họ Vũ, Trần,Phạm, Đỗ, Đoàn kết nghĩa anh em, đoàn kết cùng nhau khai khẩn và chiêu mộ nhândân các nơi tụ hội về lấn biển tạo lập vùng đất mới có tên gọi là Cẩm Hà cửuấp. Đến năm Vĩnh Tộ thứ nhất (1619), làng Hà Lạn được thành lập và chia làm 8thôn: Thượng Phúc, Trung Tự, Phượng Đông, Phượng Đoài (nay thuộc xã Hải Phúc),Phúc Lộc (nay thuộc Hải Lộc), Phúc Tự (nay thuộc Hải Thanh), Phúc Thuỵ, Trung
Lương (nay thuộc Hải Hà).

Ngày25 tháng Giêng năm Giáp Tý, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 5 (1624), An phủ sứ Vũ Duy
Hoà qua đời. Triều đình phong tặng ông dòng chữ “Khai điền lập ấp, khuyến hiếutrung khai nhân hậu linh phù tôn thần”, đồng thời cho phép lập đền thờ. Mộ củaông được an táng trong khuôn viên chùa Hà Lạn.

6.Nguyễn Công Trứ:Nguyễn Công Trứ (1778- 1858) tự là Tồn Chất, hiệu là Ngô Trai, biệt hiệu là Hy
Văn. Quê ở làng Uý Viễn (nay thuộc huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh). Ông sinh ở Thái
Bình, nơi cha ông là Nguyễn Công Tấn làm tham tán Sơn Nam. Thời Tây Sơn ôngtheo cha về quê ăn học nhưng thi cử lận đận. Mãi đến năm 42 tuổi ông mới đỗgiải Nguyên khoa thi Hương năm Kỷ Mão (1819) tại trường Nghệ An.

Nguyễn
Công Trứ làm quan dưới triều vua Minh Mạng và Thiệu Trị, từng giữ nhiều chức vụquan trọng như: Hành tẩu Quốc sử quán, tri huyện Đường Hào (Hải Dương), Langtrung bộ Lại, Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Tham hiệp trấn Thanh Hoá, Tham tán quânvụ Bắc Thành… rồi Thị Lang bộ hình. Ông có tài năng về nhiều lĩnh vực, đặc biệtlà văn thơ và tổ chức khai hoang.

Năm 1828, ông đã dâng sớ lên vua Minh Mạng xin “khai ruộnghoang để yên nghiệp dân nghèo”. Trong sớ tâu lên vua, ông đã nêu rất chi tiếtcác biện pháp về tài chính, lương thảo, công cụ, nhân lực, tổ chức để bảo đảmsự thành công của công cuộc khai hoang. Vua Minh Mạng chấp thuận sớ tâu của
Nguyễn Công Trứ và phong ông làm Dinh điền sứ phụ trách khai khẩn ở miền venbiển Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình.

Công cuộc khai hoang được khởi xướng vào tháng 3 năm Mậu
Tý (1828). Đến năm 1829 tại Nam Định đã lập được 2 tổng: Hoàng Thu (Giao Thuỷ)và Ninh Nhất (Hải Hậu). Tổng Ninh Nhất được thành lập gồm 9 làng, ấp, trại .Ông đã cho phân chia đất ở, đất canh tác, đất làm đình, làm chùa, làm đền, bãitha ma, bãi thả trâu bò, ao, hồ… Ông huy động nhân dân đắp đê ngăn mặn và vétsông, đào hào làm thuỷ lợi rất cụ thể thành một hệ thống tưới tiêu và giaothông thuận tiện.

Đểghi nhớ công đức của Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ, khi ông qua đời, nhân dântrong vùng đã đặt thần vị thờ ông tại các đền, đình làng. Hiện nay, đình An
Trạch (Hải An), Đền An Phú, An Lễ (Hải Phong) là những nơi thường xuyên thờphụng Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ.

7.Bùi Thúc Trinh(1811- 1891), tự Anh Xuyên, tục gọi là Nhất Trung, quê Quần Anh Hạ (xóm Đông
Cường, Hải Bắc ngày nay). Ông là người tinh thông nho y. Ông đi thi mấy lầnnhưng là gia đình theo Kitô giáo nên chỉ đỗ Nhất trường. Sau, ông chuyên tâmnghiên cứu y học, trở thành vị danh y. Ông đào tạo cho đời nhiều thầy thuốc giỏivà là một tác gia, cống hiến cho nền y học nước nhà những bộ sách quý giá. Tácphẩm:

Yhọc: Vệ sinh yếu chỉ, Sơ thí (3 quyển), Thuyết nghi (1 quyển),Vệ sinh mạch quyết, Điển trai y môn tập chung toát yếu.

Vănhọc: - Di nhàn tập (thơ chữ Hán)

8.Đỗ Tông Phát,còn gọi là Đỗ Phát (1813- 1893), quê ở Quần Anh Hạ, (Hải Bắc ngày nay), tự là
Xạ Phụ, hiệu Mai Hiên. Ông là học trò nổi tiếng xuất sắc của Tiến sỹ Ngô ThếVinh, đỗ Tiến sỹ năm 1843 (khi mới 31 tuổi), được bổ chức Hoan Châu đề học (đốchọc), sau đó hai lần làm Quốc tử giám tư nghiệp rồi Thượng biên (coi giữ vùngbờ biển Sơn Nam Hạ), rồi Dinh điền Phó sứ (1866), tiếp theo là Dinh điền Chánhsứ (1881), sau làm Tri phủ Ưng Hoà, Hải Hậu. Ông là người có công đầu khai khẩnlập nên tổng Quế Hải và tiếp nối sự nghiệp Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ xâydựng vùng đất tổng Ninh Nhất. Tác phẩm có: Khuê phạm ước ngữ (giáo khoa dànhcho nam giới), Khuê phạm băng kinh (giáo khoa dành cho nữ giới), Tập lục Dương
Đình phú lược; Văn thơ có: Thuỷ kinh lục , Mai viên thi văn, Sao biê
n thitập, Hàn văn thơ cầm tháo (thơ, nhạc)…Đặc biệt bài Văn bia mộ cụ Thuỷ Tổhọ Trần do Tiến sỹ Đỗ Tông Phát soạn tháng 4/1873 còn là một tài liệu lịchsử quan trọng nhất xác định lịch sử hình thành đất Cồn ấp và xã Quần Anh cùngcông lao khai khẩn lập ấp, xã của Tứ Tính, Cửu Tộc.

Cụcòn để lại những bài thơ nổi tiếng. Xin giới thiệu 2 bài thơ của cụ: Mùaxuân cấy lúa

(Dịch thơ)

Bể mớinên nương, đất chưa nhuần

Thaychua, đổi ngọt mới gian truân.

Đườngcầy xuân muộn sương mây tưới.

Khoảnhruộng bồi non cấy gặt dần.

Bò sớmđi còn sao điểm tóc.

Bừachiều về đã khói chen chân.

Lại mongthời tiết sao cho thuận.

Núi thẳmđêm đêm ngắm bóng vân.<2>

Vàbài  Khuyên con:

Con đừng tham rượu với tham hoa.

Tham rượu, tham hoa ấy mất nhà

Thường bởi rượu say, hoa quyến rũ,

Chỉ vì hoa đẹp, rượu khề khà.

Rượu vào thêm gợi tình hoa thắm,

Hoa nở càng vui chén rượu ra.

Rượu hết, hoa tàn, tiền cạn túi.

Hoa đâu, người nhỉ, rượu đâu ta!

9.Trần Văn Gia (1836 - 1892),Ông tự là Hạnh Chi, sau đổi thành Chân Tâm, hiệu Hoè Phù Hải Cường, quê Quần
Anh Trung (Hải Trung ngày nay). Ông là học trò Hoàng giáp Phạm Văn Nghị (tên
Trần Văn Gia là do Phạm Văn Nghị đặt cho). Đỗ cử nhân năm 1868. Ông theo học ở
Quốc Tử Giám và dự bốn khoa thi Hội nhưng đều không đỗ. Ra làm quan, ông lầnlượt giữ chức vụ: Điển tịch Viện Hàn lâm sung Hành tẩu bộ Binh, Biên tu Quốc sửquán, Tri huyện Yên Mô, Tri huyện Yên Khánh (Ninh Bình). Năm 1882, ông đượcthăng Giám sát Ngự sử đạo Nghệ Tĩnh.

Năm1883, khi quân Pháp đánh chiếm Nam Định, đang để tang mẹ ở quê, ông đã liên hệvới các sỹ phu yêu nước, chiêu mộ hương dũng, chuẩn bị khí giới, mưu tính việckhôi phục tỉnh nhà. Nhưng rồi triều đình ký hoà ước 1884, quân Pháp đặt áchthống trị trên cả nước, ông cáo bệnh về quê, lập trường Hải Châu dạy học, nhằmgiữ vững tinh thần yêu nước trong sỹ phu và nhân dân địa phương, đợi thời hànhđộng. Khi phong trào Cần Vương tan rã, ông cùng một số văn thân chủ trương đưanhững thanh niên có nghĩa khí ở quê hương lên Bắc Giang tham gia nghĩa quân Đề
Thám và phong trào Kỳ Đồng, bố trí một số người vào hàng ngũ binh lính Pháp,chuẩn bị nội ứng cho những hoạt động chống Pháp sau này. Ông mất năm 1892, đểlại nhiều tác phẩm thơ văn thể hiện thái độ phản đối chủ trương chủ hoà củatriều đình, là nỗi đau buồn trước vận mệnh đất nước, là sự phẫn nộ hướng vàogiặc Pháp xâm lược và bọn tay sai của chúng. Tác phẩm có:

Biêntập: Thi vị tất thi, Trần tộc đồ phả.

Soạn:Phúc cơ đình tứ ước, Hương lão hội lệ, Thượng lão hội lẹ.

Sángtác: Tích chỉ tập, Gián viên xướng thù, Kinh du tập, Công dư tạp ký, An mônha lục, Hoè Anh thủ cảo.

10. Trần Ruân (1858- 1923). Ông tự là Điền
Chi. Quê Quần Anh Trung, (nay là Hải Trung) đỗ Cử nhân năm 1884. Buồn vì đấtnước bị xâm lược ông từ chối không ra làm quan. Năm 1892, thầy học ông là Cửnhân Trần Văn Gia (tức Ngự Gia) chỉ huy nghĩa quân văn thân địa phương, quá cố.Theo đề nghị và di chúc của thầy, ông kế tục lãnh đạo phong trào. Ông là một sỹphu yêu nước, kiên quyết chống thực dân Pháp.

Cuộcđời hoạt động chính trị quân sự của ông gặp nhiều gian khổ, ông bị đô hộ Phápbắt đi bắt lại nhiều lần.

Ôngsáng tác, dịch thuật sách, truyện, văn thơ chữ Hán, chữ Nôm để nêu lên ý chícủa mình hoặc cung cấp cho thời sự. Tác phẩm có: Hương Sơn lịch phả, Tam
Tự kinh diễn âm
, Chính khí diễn âm, Quy khứ lai từ diễn âm, Đông A gia huấn, Điền chi thivăn…

11.Phạm Văn Ngọ (1905 - 1932). Quê xóm chợ Đình xã Quần
Phương Trung, nay là xóm 12 xã Hải Trung.Ông là công nhân nhà máy sợi Nam Định. Trưởng thành trong phong trào của giaicấp công nhân, được kết nạp vào tổ chức Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội năm1927, sau là Đảng Cộng sản Đông Dương. Giữa năm 1930 được cử làm Bí thư tỉnh uỷ
Hải Phòng, tháng 10/1930 được cử vào Xứ uỷ Bắc Kỳ. Tháng 11/1931 bị giặc bắt,bị kết án khổ sai chung thân, giam ở nhà tù Sơn La (1932) rồi hy sinh ở đây khimới 27 tuổi.

II.THỜI KỲ TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY

1.Phạm Hạp (1897 - 1993): pháp hiệu Thanh Thiện, pháp danh
Đức Nhuận, nên thường gọi là Hoà thượng Thích Đức Nhuận. Pháp chủ Giáo hội Phậtgiáo Việt Nam thống nhất, quê ở làng Quần Phương, huyện Hải Hậu.

Năm lên 7 tuổi, ông bắt đầu đi học đến năm 15 tuổi (1912),ông đã có trình độ căn bản về Nho học. Từ đó ông phát nguyên xuất gia học Phật,đến những năm 1920- 1921 trở thành một thiền gia có uy tín trong giáo hội Phậtgiáo Bắc Kỳ.

Từnăm 1939- 1945, ông tu giảng tại các chùa lớn ở các tỉnh Ninh Bình, Nam Định,Hà Nam, Hà Nội…, đào tạo được một số tăng tài cho Giáo hội. Sau toàn quốc khángchiến, ông trụ trì ở chùa Đồng Đắc (Ninh Bình), tham gia phong trào Phật giáocứu quốc trong vùng Pháp chiếm. Bị Pháp khủng bố, năm 1953 ông phải tạm lánhlên Hà Nội.

Năm1953, ông giữ chức Phó hội trưởng Hội Phật giáo Việt Nam, kiêm trụ trì chùa Phổ
Giác, năm sau trụ trì chùa Quán Sứ. Năm 1956, về trụ trì chùa Hoàng Ân (Quảng
Bá) ở Hà Nội.

Từsau ngày đất nước thống nhất đến năm 1981, ông được cung thỉnh làm Pháp chủ
Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất. Từ khi giữ trọng trách này, ông đề đạtvới chính quyền ba nguyện vọng khẩn yếu của Giáo hội:

-Cho mở trường đại học Phật giáo tại Hà Nội, Huế và Sài Gòn.

-Cho mỗi tự viên được nhập hộ khẩu một số tăng chúng để lo Phật tự.

-Cho phép phật tử được tự do đến chùa tu niệm.

2. Đoàn Thanh Tảo (1906- 1979), pháp danh
Thượng là người có công lớn trong việc chấn hưng Phật giáo Việt Nam thời cậnđại. Là một trong những người vận động sáng lập Hội Phật Giáo Việt Nam. Năm1951 là Phó Hội chủ Khoá đầu tiên Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Hoà Thượng được

“Thiềnsư Trí Hải là một vị danh tăng của Phật giáo Việt Nam thời cận đại. Ngài đượctăng ni và Phật tử cả nước tôn kính là một vị Cao tăng có đầy đủ giới đức vàtrí tuệ. Tên tuổi của Ngài gắn liền với công cuộc chấn hưng Phật giáo ở nước tavào những năm đầu của Thế kỷ XX.

Hơn 50 năm hành đạo, thiền sư viết khoảng 200 bài báođăng trên các báo Đuốc Tuệ, Tinh Tấn, Diệu Âm, Tin tức Phật Giáo...; Trước tácvà biên dịch khoảng 70 đầu sách”. Tiêu biểu là các tác phẩm: Nghi thức tụng niệm, Gia đình giáo dục, Kinhthập thiện, Phật học phổ thông, Phật học vấn đáp, Đồng nữ La Hán, Cái hại vàngmã, Phật hoá tiểu thuyết, Nhân Gian Phật Giáo Đại Cương (xuất bản năm 2003), Hồi ký thành lập Hội Phật Giáo Việt Nam (xuấtbản năm 2004), Phật học Ngụ Ngôn (xuất bản năm 2009).

3.Hoà Thượng Thích Tâm Thông

Năm 15 tuổi Ngài xuất gia đầu Phật.

Năm1942, Ngài được Hội Phật giáo Chấn hưng cử vào Huế tu học tại Phật học đường
Bảo Quốc- Huế.

Năm 1946, Ngài được cử làm Thư kýHội Phật giáo Cứu Quốc.

Năm 1947, Ngài bị thực dân Pháp bắtgiam ở nhà tù Nam Định.

Năm 1948, Ngài trốn thoát và vềcông tác tại chùa Cồn.

Năm 1949, Hải Hậu bị thực dân Pháp tạm chiếm, Ngài về chùa
Quán Sứ Hà Nội.

Năm 1987, Ngài được suy cử giữ chứcvụ Phó chủ tịch Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Năm 1997, Ngài được suy cử làm Phó
Pháp Chủ kiêm Chánh Thư ký Hội đồng chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Ngài được Nhà nước tặng thưởng Huânchương kháng chiến hạng Nhì và nhiều phần thưởng của Nhà nước và Mặt trận Tổquốc VN.

Anh. Ông là con thứ 3 trong một gia đình nghèo, được cô ruột nuôi ăn học. Đỗ
Thành Chung rồi học trường Kỹ nghệ Hải Phòng, ở đây, ông tham gia phong tràoyêu nước nên bị đuổi học. Năm 1928 phải ra mỏ Hà Tu để kiếm sống. Nhờ giác ngộ
Cách mạng, tháng 6/1929 trở thành Đảng viên Cộng sản. Tháng 8/1930, được phâncông làm bí thư đầu tiên của đặc khu Hồng Quảng (sau là tỉnh Quảng Ninh). Ôngbị thực dân Pháp bắt 3 lần. Sau lần thứ nhất tháng 2/1931 bị bắt đày đi Côn
Đảo. Năm 1936, chính phủ Mặt Trận Bình Dân Pháp ra đời, ông được ra tù lại tiếptục hoạt động Cách mạng cùng các ông Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh… Ông giữ cương vị
Phụ trách Văn phòng trung ương Đảng. Tháng 1/1940 lại bị bắt đầy đi Côn Đảo lầnthứ 2.

Mặc dù bị tra tấn dã man ở trong “chuồng cọp” Côn Đảo vàchế độ nhà tù hà khắc, ông vẫn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Cách mạng.Ông hy sinh vào cuối tháng 3/1943 tại nhà tù Côn Đảo. Trước khi trút hơi thởcuối cùng đã trao lại cho ông Lê Duẩn (sau này là Tổng bí thư Đảng Cộng Sản
Việt Nam) tấm áo của mình và căn dặn:

Đồngchí giữ tấm áo này mặc, phải sống để phục vụ Đảng cho Cách mạng.

Đâylà câu nói Tổng bí thư Lê Duẩn nói tại Côn Đảo năm 1976.

Nhàthơ Tố Hữu đã viết: Chết còn cởiáo cho nhau

Nắm cơmđể lại người sau ấm lòng

Saungày đất nước hoàn toàn giải phóng, Đảng và chính quyền huyện Côn Đảo đã dựng Tượngđài về tấm gương tiêu biểu của những người Cộng sản Việt Nam. Huyện Hải Hậu đãtrùng tu Khu di tích Nhà ông Vũ Văn Hiếu và đã được công nhận là Di tích Lịchsử - Văn hoá.

Hà nội. Ông là nhà viết kịch. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, Đào Hồng Cẩmhoạt động ở địa phương, tham gia quân đội từ năm 1947, từng làm nhiều công tác,trong đó hoạt động trên lĩnh vực nghệ thuật là chủ yếu; đã qua các cương vị:Chính trị viên Đoàn văn công Đại đoàn 308 (1951), trợ lý văn nghệ Tổng cục
Chính trị (1957), Giám đốc nhà văn hoá (1970).

Ôngsay mê văn chương từ nhỏ, nhưng đến năm 1957 mới có vở diễn chính thức. Ông là1 trong những nhà viết kịch có nhiều vở công diễn trong những năm 1960- 1975,tham gia Ban Chấp hành Hội Nghệ sỹ sân khấu Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt

Tác phẩm: Chị Nhàn (kịch, 1961), Nổi gió,(kịch, 1964), Đại đội trưởng của tôi (kịch, 1974), Tổ Quốc(kịch, 1976). Ngoài ra còn nhiều vở kịch khác được công diễn như: Nghị Hụt(1957), Trước giờ chiến thắng (1960), Ông cháu (1965), Bướctheo anh (1966), Một người mẹ (1978), Đêm và ngày (1980)…Nhiều vở diễn của ông được giải cao tại các Hội diễn văn nghệ toàn quốc như: Chị
Nhàn, Đại đội trưởng của tôi…
Có vở dựng thành phim sân khấu như Nổi gió.

Ôngđược truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - nghệ thuật, đợt I năm 1996.

6.Nguyễn Thi (1928- 1968):Tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, quê xã Quần Phương (Hải Anh). Sau này lúc đi bộđội làm thơ, viết văn, lấy tên là Nguyễn Ngọc Tấn. Hội viên Hội Nhà văn Việt
Nam.

Nguyễn Thi mồ côi cha sớm, thủa nhỏ phải đi sống nhờ họhàng ở quê. Đầu năm 1945, ông vào Nam,tham gia Cách mạng tháng Tám tại Sài Gòn. Trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn
Thi làm công tác tuyên huấn, rồi làm đội trưởng văn công quân khu miền Đông Nam
Bộ. Thời gian này, ông sáng tác nhiều thơ, thơ ông giản dị, giàu tình cảm vàđậm chất dân tộc; một số bài được tập hợp trong tập Hương Đồng Nội (1950).

Đầunăm 1955, tập kết ra Bắc, làm Đội trưởng văn công Sư đoàn 330. Năm 1956, chuyểnvề tạp chí Văn nghệ Quân đội. Thời kỳ này ông chuyên viết ký và xuất bản 2 tậpchuyện ngắn Trăng sáng (1960), Đôi bạn (1962).

Năm1962 ông trở lại chiến trường miền Nam, tham gia chống Mỹ trong lực lượng vănnghệ giải phóng. Ông sống gắn bó với người dân Nam Bộ và trực tiếp chiến đấunhư người chiến sỹ. Nguyễn Thi sáng tác ở nhiều thể loại văn xuôi khác nhau, ởlĩnh vực nào ông cũng có những thành công đáng kể, đưa đến cho văn học cáchmạng Việt Nam những tác phẩm đạt chất lượng cao cả về tư tưởng lẫn nghệ thuật: Ngườimẹ cầm súng, Những sự tích đất thép, Chuyện xóm tôi (ký), Mẹ vắng nhà,Những đứa con trong gia đình (Truyện ngắn), Đại đội anh hùng, Dòng kinhquê hương (Tuỳ bút)…

Tháng 5/1968, ông theo một đoàn pháo binh, tham dự tấncông Mậu Thân đợt thứ hai và hy sinh trên chiến trường tại đường Minh Phụng,thành phố Sài Gòn. Ông để lại một số tác phẩm tuy đang viết dở dang nhưng đã cótầm cỡ của những tác phẩm xuất sắc: Sen trong Đồng (truyện), Ước mơcủa đất (ký), Ở xã Trung Nghĩa (tiểu thuyết).

Nguyễn
Thi được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học- nghệ thuật năm 2000.

7. Vũ Mão (1939-2020):

Vũ Mão, sinh năm 1939, quêxã Hải Anh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Năm 1949, ông làm liên lạc viên của Quângiới Việt Nam. Năm 1951, ông tham gia Thiếu sinh quân Việt Nam, sau đó đi học ở
Trường thiếu sinh quân Việt Nam tại Quế Lâm, Trung Quốc, và học vănhóa tại Nam Ninh, Trung Quốc từ năm 1954 đến năm 1957.

Năm 1960, ông theo học ngành Thủy nông và Quy hoạch thủy lợitại Học viện Thủy lợi Điện lực và tốt nghiệp kỹ sư Thủy lợi năm 1964.Sau khi tốt nghiệp, ông được giữ lại làm cán bộ giảng dạy tại trường đến năm1971.

Năm 1971, ông được điều chuyển về công tác tại Ty Thủy lợi Quảng
Ninh làm đội trưởng đội quy hoạch. Cuối năm đó, ông được bổ nhiệm làm Phó Ty
Thủy lợi. Năm 1976, ông được thăng làm Trưởng ty Thủy lợi.

Tháng 1/1979, ông được phân công làm Bí thư Huyện ủy Tiên
Yên, tỉnh Quảng Ninh đến năm 1980.

Năm 1980, ông được điều sang làm Bí thư Tỉnh Đoàn Thanh niên tỉnh
Quảng Ninh. Tháng 11/1980, ông được phân công làm Bí thư Trung ương Đoàn Thanhniên Cộng sản Hồ Chí Minh, phụ trách tổ chức và kiêm Bí thư Đảng uỷ Cơ quan
Trung ương Đoàn.

Tháng 4/1982 đến tháng 11/1987, ông được bầu làm Bí thư thứ nhất
Trung ương đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.

Ông đồng thời cũng là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Namcác khóa V, VI, VII, VIII, IX (từ năm 1982 đến năm 2006)

Tháng 5/1987, ông được bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa VIII. Từtháng 12/1987 đến tháng 7/1992, là Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhànước. Ông đã thay đổi lề lối hoạt động của Văn phòng Quốc hội như cho truyềnhình trực tiếp các phiên họp, bỏ phiếu bằng máy móc, tăng cường giao lưu với
Nghị viện các nước.

Từ tháng 7/1992 đến tháng 7/2002, là Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Ủyban thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.

Từ tháng 7/2002 đến tháng 7/2007 là Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Ủyban thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại của Quốc hội.

Ông cũng đóng góp lớn vào hoạt động ngoại giao nghịviện, mở rộng hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam và nghị viện các nước trên thếgiới, đúng vào thời điểm đất nước ta hội nhập mạnh mẽ.

Ông còn là một nhà thơ, nhạc sĩ với nhiều ca khúc tuyêntruyền về hoạt động của Quốc hội, về đất nước và con người. 

Tháng 1/2008 ông nghỉ chế độ hưu trí theo quy định. Ông mất năm2020.

III.ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

A.Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp

 1. Liệt sỹ Trần Văn Chử: Sinh năm 1910, quê xã

2.Trần Mạnh Phấn, sinh năm 1926, quê quán xã Hải Anh, Trưởng ban trinh sát- Trungđoàn 88, sư đoàn 308, Quân đoàn 1. Ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực

3.Liệt sỹ Vũ Giao Hoan, sinh năm 1923, quê quán xã Hải Thanh, Tổ trưởng tổ 1- Độivũ trang tuyên truyền huyện Hải Hậu. Ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực

6.Vũ Văn Hiếu, sinh năm 1907, quê quán xã Hải Anh, Bí thư đặc khu ủy mỏ Quảng

B.Thời kỳ chống Đế quốc Mỹ

2.Liệt sỹ Vũ Quang Trung: Sinh năm 1942, quê thị trấn Thịnh Long, nguyên là Tiểuđoàn trưởng bộ đội Phòng không - Không quân; hy sinh năm 1972. Được truy tặngdanh hiệu AHLLVTND ngày 08/11/ 2000.

3.Liệt sỹ Nguyễn Xuân Sinh: Sinh năm 1948, quê thị trấn Thịnh Long, nguyên khẩuđội trưởng pháo phòng không 12 ly7; hy sinh tại trận địa ở khu vực ven cửa sông

10.Phạm Viết Bảo: Sinh năm 1950, quê xã Hải Lộc, được phong tặng danh hiệu

11.Nguyễn Thi, Sinh năm 1928, quê xã Hải Anh, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, thamgia chiến đấu ở Cục chính trị quân giải phóng, được truy tặng danh hiệu

13.Lại Ngọc Ngợi: Sinh năm 1952, quê xã Hải Long, Trung úy, Đại Trưởng Đại đội

IV. Danh sáchngười Hải Hậu giữ chức vụ từ Phó Chủ tịch UBND tỉnh trở lên:

1- Hoà thượng Thích Thế Long

Thế danh: Phạm Thế Long, sinh năm1909 tại xã Hải Anh, Hải Hậu.

Ông là Phó Chủ tịch Thường trực Hộiđồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, là Phó Chủ tịch Hội “ Phật giáo Châu Á vì Hòa bình”.

Ông được bầu là Đại biểu Quốc hộivà được Quốc hội bầu là Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam Khoá VII.

Ông được Nhà nước tặng thưởng Huânchương Độc lập hạng Nhì, Huân chương kháng chiến hạng Ba.

Ông viên tịch ngày 23 tháng 3 năm1985.

2-Hoàng Quốc Thịnh: Quê xã Hải Sơn, nguyên Bộ trưởng Bộ Nội thương.

3-Vũ Mão: Sinh năm 1939, quê xã Hải Anh, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng khóa V,VI, VII, VIII, IX; nguyên Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chánh văn phòng
Quốc hội...

4- Nguyễn Huy Hiệu: Sinh năm 1947, quê xã Hải Long, Uỷviên TW Đảng, Thượng tướng QĐND Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (11/1998-2011).

5-Hoàng Kỳ: Sinh năm 1947, quê xã Hải Tây, Trung tướng, nguyên Phó Tổng tham mưutrưởng QĐND Việt Nam.

6-Trần Sơn: Sinh năm 1961, quê xã Hải Anh, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng-Chủnhiệm Văn phòng Chính Phủ.

7-Vũ Hải Sản: Sinh năm 1961, quê quán xã Hải Đường, Uỷ viên Trung ương Đảng,Trung tướng, Thứ Trưởng Bộ Quốc phòng.

8-Vũ Hải Hà: Sinh năm 1969, quê quán xã Hải Anh (con trai Vũ Mão), Uỷ viên Trungương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại của Quốc Hội.

9-Trần Văn Nhung: Sinh năm 1948, quê xã Hải Châu, Tiến sỹ, nguyên Thứ trưởng Bộ
Giáo dục- Đào tạo (2001-2008).

11- Nguyễn Văn Khá: Sinh năm 1943, quê xã Hải Thanh,Thiếu tướng, nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc phòng và An ninh Quốc hội nước Cộnghoà XHCN Việt Nam

12-Trần Minh Oanh: Sinh năm 1949, quê xã Hải Phong, Chủ tịch UBND tỉnh Nam Định(2004 - 2009).

13-Nguyễn Văn Xuyên: Sinh năm 1941, quê xã Hải Minh, nguyên Phó chủ tịch UBND tỉnh
Nam Định.

14-Phạm Văn Kiệm: Sinh năm 1949, quê xã Hải Phương, Phó chủ tịch HĐND tỉnh Nam Định(2003 - 2009).

Xem thêm: Giải văn 9 bài khởi ngữ (chi tiết), soạn bài khởi ngữ

15-Nguyễn Văn Tuấn: Sinh năm 1954, quê xã Hải An, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch
UBND tỉnh Nam Định (2009-2014).

16-Trần Văn Chung: Sinh năm 1962, quê xã Hải Tây, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy,Chủ tịch HĐND tỉnh Nam Định (Từ năm 2015-2020)

function t
S(){ x=new Date(); x.set
Time(x.get
Time()); return x; } function y2(x){ x=(x 11) { ap ="PM"; };return ap;} function d
T(){ if(fr==0){ fr=1; document.write(""+eval(o
T)+""); } t
P.inner
Text=eval(o
T); set
Timeout("d
T()",1000); } var d
N=new Array("Chủ nhật","Thứ hai","Thứ ba","Thứ tư","Thứ năm","Thứ sáu","Thứ bảy"),m
N=new Array("1","2","3","4","5","6","7","8","9","10","11","12"),fr=0,o
T="d
NS().get
Day()>+", "+t
S().get
Date()+"/"+m
NS().get
Month()>+"/"+y2(t
S().get
Year())+"-"+t
S().get
Hours()+":"+t
S().get
Minutes()+" "+k()"; d
T();
CÔNG TRÌNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH CỦA BAN TUYÊN GIÁO QUẬN ỦY QUẬN 8 “DÂN TA PHẢI BIẾT SỬ TA"

Trang web liên kết Hồ Chí Minh city web Quận 1 Quận 2 Quận 3 Quận 4 Quận 5 Quận 6 Quận 7 Quận 8 Quận 9 Quận 10 Quận 11 Quận 12 Quận Bình Tân Quận Bình Thạnh Quận Gò Vấp Quận Phú Nhuận Quận Tân Bình Quận Tân Phú Quận Thủ Đức Huyện Bình Chánh Huyện Cần Giờ Huyện Củ Chi Huyện Hóc Môn Huyện Nhà Bè

*


1. LÝ THÁI TỔ (1010 – 1028) Tên húy là Lý Công Uẩn, sinh ngày 12 tháng 02 năm Giáp Tuất (974) là người châu Cổ Pháp (thuộc huyện Tiên Sơn tỉnh Bắc Ninh ngày nay). Thời Lê Ngọa Triều, Lý Công Uẩn giữ chức Tứ sương quân phó chỉ huy sứ, sau đó được thăng đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Bởi chức này, sử cũ thường gọi vua là Thân vệ. ...
1. LÝ THƯỜNG KIỆT Lý Thường Kiệt vốn tên là Ngô Tuấn, tự là Thường Kiệt, quê ở làng An Xá, huyện Quảng Đức (Cơ Xá, Gia Lâm, Hà Nội) con của ông Ngô An Ngữ. Ông sinh năm Kỷ Mùi (1019) mất năm Ất Dậu (1105 ) hưởng thọ 86 tuổi.Từng làm quan trải thờ đến ba đời Hoàng đế (gồm Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông). Ông liên tiếp được ...
1. TRẦN THÁI TÔNG (1225-1258) Tên thật là Trần Cảnh, nguyên quán Làng Tức Mặc, Phủ Thiên Trường, nay là xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Trần cảnh sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần (1218), con thứ của ông Trần Thừa, thân mẫu người họ Lê. Ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu (1225), Trần Cảnh chính thức lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến ...
1. TRẦN THỦ ĐỘ (1194- 1264).Trần Thủ Độ sinh năm Giáp Dần (1194) tại làng Lưu Xá (Hưng Hà-Thái Bình). Là một người ít học, nhưng là người mưu lược, quyết đoán và có công đầu trong việc xây dựng cơ nghiệp nhà Trần.Cuối triều Lý, nền kinh tế đất nước suy thoái, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, giặc dã nổi lên nhiều nơi. Trong khi đó quân ...
1. HỒ QUÝ LY (1400) Tổ tiên của Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật, di cư đến nước ta trong khoảng thời Ngũ đại thập quốc (907-960). Hồ Hưng Dật định cư tại thôn Đào Bột, phủ Diễn Châu (nay là Nghệ An) và từ đó về sau, con cháu của ông đời đời làm trại chủ của đất này. Đến đời thứ 12, một người của họ Hồ là Hồ Liêm đã bỏ Diễn Châu di cư ra đất Đại Lại ...
1. LÊ LỢI (1428 - 1433). Niên hiệu: Thuận Thiên (1428-1433).Lê Lợi sinh năm 1385 là con thứ ba của Lê Khoáng và Trịnh Thị Thương, người ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hóa. Lê Lợi là người thông minh, dũng lược, đức độ hơn người, dáng người hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, trên vai phải có nốt ruồi đỏ lớn, tiếng nói như ...
Xem theo ngày
*
*

■ CHỢ HOA XUÂN "TRÊN BẾN DƯỚI THUYỀN”- NÉT ĐẸP VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG GIỮA LÒNG ĐÔ THỊ HIỆN ĐẠI (17/01) ■ Cần cơ chế vượt trội, đẩy mạnh phân cấp (16/01) ■ Chung cư "xuyên đêm" nấu bánh chưng đón tết (16/01) ■ RỘN RÀNG HỘI THI CẮM HOA NGHỆ THUẬT, CHƯNG MÂM NGŨ QUẢ CHỢ HOA XUÂN "TRÊN BẾN DƯỚI THUYỀN" TẾT QUÝ MÃO NĂM 2023 (16/01) ■ Những người miền Tây 20 năm chở ghe hoa lên TP.HCM bán tết ‘Trên bến dưới thuyền’ (16/01)