Bạn đang quan tâm đến Các tác phẩm đoạt giải nobel văn học phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Các tác phẩm đoạt giải nobel văn học

Giải thưởng Nobel Văn học là giải thưởng cao quý nhất đối với người theo sự nghiệp văn học khi các tác phẩm đoạt giải Nobel luôn là những cuốn sách đáng đọc nhất trong đời mỗi con người nên đọc ít nhất một lần. Ngay sau đây Phê Bình Văn Học sẽ giới thiệu đến bạn đọc 12 cuốn sách đoạt giải Nobel Văn Học đáng xem nhất từ từ thập niên 1900 đến 2020.

Bạn đang xem: Tác phẩm đoạt giải nobel văn học

*

12 Cuốn Sách Đoạt Giải Nobel Văn Học Hay nhất thế giới

1. Sông Đông êm đềm – Mikhail Solokhov

Sông Đông êm đềm là bộ tiểu thuyết vĩ đại nhất của nhà văn Nga Mikhail Aleksandrovich Sholokhov. Với tác phẩm này, Sholokhov đã được tặng Giải Nobel văn học năm 1965.

Sông Đông êm đềm miêu tả một giai đoạn lịch sử mười năm từ 1912 đến 1922 trong phạm vi địa lý rộng lớn: mặt trận miền Tây nước Nga trong Thế chiến thứ nhất, Ukraina, Ba Lan, România cho đến Sankt-Peterburg, Moskva nhưng chủ yếu diễn ra ở hai bờ sông Đông và tập trung vào một làng Cossack ven sông. Trong phần đầu của tiểu thuyết, Sholokhov đã quay lại quá khứ của gia đình Melekhov từ thời người ông nội với cô vợ người Thổ Nhĩ Kì bị người dân Cossack xa lánh và dị nghị do lối sống kì lạ. Gregori Melekhov là con thứ hai trong một gia đình ông nội là người Cossack, bà nội là người Thổ Nhĩ Kỳ. Gregori đem lòng yêu Aksinia, vợ một người hàng xóm và nhằm ngăn cản mối quan hệ này, gia đình Melekhov cưới Natalia cho chàng. Để được tiếp tục sống bên nhau, Gregori và Aksinia cùng bỏ nhà đi làm thuê. Tủi nhục, phẫn uất, Natalia đã quyên sinh nhưng không chết.

Gregori phải đi lính khi đến tuổi và cùng với những chàng trai Cossack khác, trong đó có người anh Pyotr nhập ngũ trước đó chiến đấu chống lại quân Áo, Đức trong những năm đầu của Thế chiến thứ nhất. Tham gia chiến tranh, do cứu sống một Trung tá bị thương, chàng được tặng Huân chương thánh Gorge đồng thời cảm nhận thấy tính chất tàn bạo, vô nghĩa của chiến tranh và luôn day dứt về điều đó. Ở quê nhà, Aksinia sống trong cơ cực, cô đơn, tuyệt vọng, đứa con đầu lòng cũng không sống nổi vì bệnh tật, nàng đã chấp nhận quan hệ với Evgeni, con trai của chủ nhà. Bị thương và về phép, biết được chuyện của Aksinia, Gregori quay trở về sống với Natalia và sau khi chàng trở lại quân ngũ ít lâu thì Natalia sinh đôi một trai, một gái. Cách mạng tháng Mười nổ ra, trong những ngày hỗn loạn ấy, Gregori bị xô đẩy hết từ “bên Đỏ” rồi lại sang “bên Trắng”. Mặc dù chán ghét và không ý thức được mình chém giết để làm gì nhưng vó ngựa Cossack của Gregori vẫn phiêu bạt khắp các chiến trường, lao vào những trận đánh đẫm máu.

Bất chấp những gì đã xảy ra, Gregori và Aksinia vẫn yêu nhau và họ đã nối lại quan hệ. Tuyệt vọng, Natalia nhờ một bà lang băm bỏ đi giọt máu của mình và Gregori mà nàng đang mang trong người rồi chết do mất máu, trước khi chết Natalia đã tha thứ cho Gregori. Không lâu sau, con gái của Gregori và Natalia cũng chết do bệnh tật. Sau khi giải ngũ về quê, đã chán ghét cảnh chém giết trên chiến trường chàng chỉ mong có một cuộc sống bình yên cùng Aksinia. Bất chấp điều đó và mặc dù giữa em gái Gregori với Miska Kosevoi, một người bạn của chàng đã trở thành đại diện cho chính quyền Xô viết trong vùng yêu nhau tha thiết, chàng luôn sống trong sự đe dọa phải trả giá cho những gì đã gây ra khi chống lại chính quyền mới. Lo sợ trước nguy cơ bị bắt giam và xét xử, Gregori bỏ trốn theo quân thổ phỉ của Fomin.

Chính quyền Xô viết ngày càng được củng cố và toán phỉ của Fomin không còn đất dung thân, Gregori đem Aksinia bỏ trốn đi một nơi xa mong có được cuộc sống yên ổn nhưng trên đường trốn chạy bị phát hiện, truy đuổi, Aksinia trúng đạn chết trên tay Gregori. Cùng trong lúc này, Gregori đã đem tất cả vũ khí thả xuống sông Đông như một hành động giã từ vũ khí. Trở về vùng sông Đông, anh gặp lại con trai. Anh được biết bố mẹ đã mất, anh trai (lính bảo hoàng) bị em rể (hồng quân) giết. Tất cả những gì còn lại của Gregori trên đời là đứa con trai duy nhất. Hình ảnh cuối cùng của bộ tiểu thuyết là cảnh Gregori bồng đứa con về nhà.

2. Tên tôi là đỏ – Orhan Pamuk

– Đạt Giải Nobel Văn Chương 2006 –

Ẩn dấu bên trong bức màn bí ẩn, đầy lôi cuốn của câu chuyện trinh thám với những án mạng bi thảm, Tên tôi là Đỏ đã đưa độc giả trở về 4 thế kỷ trước, giữa thành Istanbul hoa lệ, khám phá chiều sâu tâm hồn của một dân tộc.

Câu chuyện bắt đầu vào mùa đông năm 1591, trong lễ kỷ niệm một ngàn năm Hegira, Hoàng đế Thổ ra lệnh cho Enishte – một nhà tiểu họa tài ba, thực hiện một cuốn sách ca ngợi đế quốc của mình, và phải được minh hoạ theo phong cách Venice, vốn là lối vẽ của phương Tây. Trong bối cảnh lịch sử, văn hóa của Thổ Nhĩ Kỳ thế kỷ XVI, đây là một điều bị ngăn cấm, ai thực hiện có thể sẽ gặp nguy hiểm. Nhận trọng trách từ Đức vua, Enishte bí mật giao cho những nhà tiểu họa bậc thầy: Zeytin, Zarif, Leylek, Kelebek, mỗi người một phần việc riêng để hoàn thành cuốn sách mà không một ai thấy được thành phẩm hoàn chỉnh.

Thế nhưng, cuốn sách chưa kịp làm xong thì những vụ án mạng đã xảy ra. Zarif – người thợ mạ vàng tài hoa bị giết chết thảm khốc và ném xác xuống giếng hoang. Sau đó, Enishte bị hạ sát ngay tại nhà bằng chiếc bình mực cổ. Kẻ sát nhân đã để lại những vết tích kỳ lạ trên cuốn sách dang dở. Bao mối hoài nghi được đặt ra, phải chăng mục đích giết người là sự đố kỵ nghề nghiệp, lòng ghen tuông tình ái… Bức màn bí ẩn chỉ thực sự hé mở vào cuổi tác phẩm. Người đi tìm lời giải mã là chàng Siyah và sư phụ Osman – một nhà tiểu họa già. Động lực tình yêu của Siyah với Shekure, con gái của Enishte, đã đưa chàng khá phá vụ án bí ẩn đó. Chính điều này khiến Tên tôi là Đỏ đa chiều hơn, phong phú hơn, đẹp đẽ hơn.

Từ câu chuyện trinh thám ly kỳ, Tên tôi là Đỏ đưa ra một cuộc đối thoại Đông – Tây, để rồi từ đó khai phá chân dung và vẻ đẹp tinh thần ẩn chứa dưới những bức thành Istanbul, những nét đặc sắc đã đưa người Ba Tư trở thành một huyền thoại mãi mãi của thế giới. Cũng từ đó, tác phẩm khai phá một triết lý sống với những chiêm nghiệm về tình yêu, nghệ thuật, sự sống và cái chết.

3. Trăm năm cô đơn – Gabriel Garcia Marquez

Cho đến nay Trăm năm cô đơn vẫn là cuốn tiểu thuyết lớn nhất của Gabriel Garcia Márquez, nhà văn Columbia, người được giải Nobel về văn học năm 1982.

Trăm năm cô đơn ra đời (1967) đã gây dư luận sôi nổi trên văn đàn Mỹ Latinh và lập tức được cả thế giới hâm mộ. Sau gần hai mươi năm, Trăm năm cô đơn đã có mặt ở khắp nơi trên hành tinh chúng ta để đến với mọi người và mọi nhà.

Trăm năm cô đơn là câu chuyện về dòng họ Buênđya tồn tại bảy thế hệ, người đầu tiên bị trói vào gốc cây và người cuối cùng bị kiến ăn, một dòng họ tự lưu đày vào cõi cô đơn để trốn tội loạn luân. Trong cõi cô đơn ấy, những Accađiô, Aurêlianô, Rêmêđiôt và những Amaranta đã ra đời, sống với số phận bi đát như đã được định trước: lay lắt trong nỗi cô đơn và hoài nhớ, thấp thỏm lo phạm tội loạn luân. Nhưng rồi họ yêu nhau mãnh liệt và lấy nhau với hy vọng tình yêu sẽ cải tạo nòi giống mình. Nhưng họ vẫn đẻ ra những đứa con có đuôi lợn và chính nó đã kết liễu dòng họ Buênđya.

Trăm năm cô đơn là lời kêu gọi mọi người hãy sống đúng bản chất người – tổng hòa các mối quan hệ xã hội – của mình, hãy vượt qua mọi định kiến, thành kiến cá nhân, hãy lấp bằng mọi hố ngăn cách cá nhân để cá nhân mình tự hòa đồng với gia đình, với cộng đồng xã hội. Vì lẽ đó Garcia Márquez từng tuyên bố cuốn sách mà ông để cả đời sáng tác là cuốn sách về cái cô đơn và thông qua cái cô đơn ông kêu gọi mọi người đoàn kết, đoàn kết để đấu tranh, đoàn kết để chiến thắng tình trạng chậm phát triển của Mỹ Latinh, đoàn kết để sáng tạo ra một thiên huyền thoại khác hẳn. Một huyền thoại mới, hấp dẫn của cuộc sống, nơi không ai bị kẻ khác định đoạt số phận mình ngay cả cái cách thức chết, nơi tình yêu có lối thoát và hạnh phúc là cái có khả năng thực sự, và nơi những dòng họ bị kết án trăm năm cô đơn cuối cùng và mãi mãi sẽ có vận may lần thứ hai để tái sinh trên mặt đất này.

Người đọc tìm đến với Trăm năm cô đơn bởi đó là cuốn sách văn học thực sự mang hơi thở đời sống hiện đại – cuốn sách của niềm tin và những số phận con người.

4. Bác sĩ Zhivago – Boris Pasternak

Tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago được Pasternak viết xong năm 1956, nhưng do nội dung không thích hợp với đời sống văn học, chính trị Liên Xô lúc bấy giờ, nên đã bị Viện Văn học Moskva và Hội Nhà văn Liên Xô kịch liệt phản đối, các nhà xuất bản ở Liên Xô từ chối xuất bản, còn bản thân Pasternak bị Hội Nhà văn Liên Xô kịch liệt lên án, đả kích.

Dù không được xuất bản trong nước và bị lên án dữ dội, nhưng tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago vẫn tìm được đường đến với độc giả các nước phương Tây. Năm 1957, bản thảo truyện được in thành sách tiếng Nga tại Ý. Năm sau có ấn bản tiếng Ý và tiếng Anh. Pasternak nhờ đó mà được đề nghị nhận giải Nobel văn chương năm 1958, nhưng chính quyền Xô viết bấy giờ ép ông phải từ chối nhận giải thưởng này. Mãi đến 1988, tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago mới được cho in và xuất bản tại Nga.

Cho đến tận ngày nay, Bác sĩ Zhivago vẫn được xem là cuốn tiểu thuyết gây sóng gió bậc nhất, là tác phẩm văn học điển hình nhất của cuộc chiến tư tưởng giữa hai siêu cường thời Chiến tranh lạnh.

5. Trên sa mạc và trong rừng thẳm – Henryk Sienkiewicz

Câu chuyện kể về cuộc phiêu lưu trên vùng đất Đông Phi của cậu bé Stas mười bốn tuổi và cô bé Nell tám tuổi khi bị bắt cóc và đem từ kênh đào Suez qua sa mạc Sahara tới Sudan. Trải qua không biết bao nhiêu hiểm nguy, đối mặt với nhiều gian nan thử thách, khi thì trên sa mạc nắng cháy, lúc giữa rừng già thẳm sâu, cuối cùng, Stas và Nell cũng đoàn tụ được với gia đình.

Là tác phẩm duy nhất viết cho thiếu nhi của nhà văn Ba Lan nổi tiếng Henryk Sienkiewicz, ngay từ khi xuất bản lần đầu năm 1912, Trên sa mạc và trong rừng thẳm đã được hoan nghênh nhiệt liệt, được tái bản ngay và được dịch ra nhiều thứ tiếng, sau đó được dựng thành phim năm 1973 và 2001. Trong suốt một thế kỷ qua, tác phẩm đề cao lòng quả cảm, khát vọng đi tới những chân trời xa, thực hiện những kì tích phi thường này luôn được coi là một trong những cuốn truyện hay nhất dành cho thiếu nhi.

Cuốn sách Trên sa mạc và trong rừng thẳm được dịch giả Nguyễn Hữu Dũng dịch từ nguyên tác tiếng Ba Lan “W pustyni i w puszczy” – NXB Pans twowi institut widawniczi.

6. Ông già và biển cả – Ernest Hemingway

Ông già và Biển cả (tên tiếng Anh: The Old Man and the Sea) là một tiểu thuyết ngắn được Ernest Hemingway viết ở Cuba năm 1951 và xuất bản năm 1952. Nó là truyện ngắn dạng viễn tưởng cuối cùng được viết bởi Hemingway. Đây cũng là tác phẩm nổi tiếng và là một trong những đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Tác phẩm này đoạt giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu năm 1953. Nó cũng góp phần quan trọng để nhà văn được nhận Giải Nobel văn học năm 1954.

Trong tác phẩm này, ông đã triệt để dùng nguyên lý mà ông gọi là “tảng băng trôi”, chỉ mô tả một phần nổi còn lại bảy phần chìm, khi mô tả sức mạnh của con cá, sự chênh lệch về lực lượng, về cuộc chiến đấu không cân sức giữa con cá hung dữ với ông già. Tác phẩm ca ngợi niềm tin, sức lao động và khát vọng của con người.

7. Từ thăm thẳm lãng quên – Patrick Modiano & Sempé

Một câu chuyện bỗng nhiên hiện ra từ quá khứ mịn màng. Lúc nào người ta cũng tự hỏi, làm cách nào, bằng thứ giả thuật kim nào, mà tác giả có thể tạo ra những ký ức tinh xảo đến thế.

Nhưng Jaquenline, Van Bever rồi Peter Rachman, Paris và London của giai đoạn hậu chiến trong “Từ thăm thẳm lãng quên” dần dà làm cho chúng ta hiểu rằng vỏ bọc quá khứ mịn màng hoàn toàn có thể chứa đựng những kỷ niệm đâu đớn đến thế nào, những kỷ niệm ngủ yên nhưng sẽ quay trở lại quấy nhiễu chúng ta sau từng quãng thời gian mười lăm năm.

Cuốn sách không chỉ dệt nên mối quan hệ kỳ lạ giữa quá khứ và thực tại, mà còn tạo ra những mối liên hệ với các tiểu thuyết khác của Patrick Modiano, nhất là ” Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối”

Theo top7thuvi.com

8. Mãi Đừng Xa Tôi

Mãi Đừng Xa Tôi là câu chuyện mang tính khoa học giả tưởng, lấy bối cảnh nước Anh cuối thế kỷ 20.

baigiangdienbien.edu.vn | Văn hóa | Thế giới văn hóa | 10 tác phẩm đoạt giải Nobel Văn học nên đọc ít nhất một lần trong đời
*
10 nữ chính phim Hàn truyền cảm hứng giúp bạn tự tin vào chính mình

Nobel Văn học là giải thưởng cao quý đối với người theo nghiệp văn chương và các tác phẩm đoạt giải thưởng này luôn là những cuốn sách đáng đọc ít nhất một lần trong đời.


Cùng baigiangdienbien.edu.vn điểm danh 10 tác phẩm văn học tiêu biểu có thể đánh thức nhiều chiêm nghiệm sâu sắc về con người và cuộc đời trong lòng độc giả giữa những ngày cách ly hiện tại nhé.

1. Dịch hạch – Albert Camus


Dịch hạch là cuốn tiểu thuyết mang màu sắc ký sự của nhà văn Pháp nổi tiếng Albert Camus, ra đời vào năm 1947. Câu chuyện xoay quanh hành trình chiến đấu chống lại căn bệnh dịch hạch tại thành phố Oran của Pháp, nằm ở phía Bắc Algérie. Mặc dù được sáng tác khá lâu nhưng tính thời sự cũng như mức độ chân thực của tác phẩm văn học này khi miêu tả cách thức loài người chống lại đại dịch vẫn vẹn nguyên giá trị ở hiện tại.

Dịch hạch ra đời ngay sau Thế chiến II nên thảm họa miêu tả trong đó có thể khiến người ta liên tưởng đến chủ nghĩa phát xít. Nhưng cũng có thể, tiểu thuyết này ám chỉ bất cứ hình thức bạo lực nào đe dọa cuộc sống loài người ở hiện tại và tương lai.

2. Đẹp và buồn – Kawabata Yasunari


Theo thời gian, những tác phẩm văn học của Kawabata Yasunari vẫn luôn có sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với đông đảo độc giả trên toàn thế giới, phản ảnh nhiều phương diện văn hóa của xứ sở Mặt Trời mọc cũng như những rung cảm đầy đam mê mà tinh tế của tâm hồn Nhật Bản.

Lấy bối cảnh chính là cố đô Kyoto, Đẹp và buồn là câu chuyện tình tay ba đầy bi kịch của nhà văn Oki với tình nhân Otoko và người vợ Fumiko của ông. Oki say mê vẻ đẹp thanh khiết của thiếu nữ Otoko khi ấy mới 17 tuổi, để rồi khi cô có thai, ông lại không dám chia tay vợ mình để đến với cô, khiến Otoko sinh non đứa bé. Sau này, Oki viết tác phẩm Thiếu nữ mười sáu như một lời gợi nhắc về mối tình vấn vương giữa ông và cô thiếu nữ năm nào nhưng rồi chính nó lại là tác nhân khiến vợ ông sảy thai. Đam mê và nhục cảm hòa quyện cùng vẻ đẹp tình yêu đồng thời cũng là nét đẹp điên rồ của lòng hận thù, tạo thành một cuộc truy lùng, đeo đuổi mãi không dứt.

3. Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối – Patrick Modiano


Với độ dày chưa đầy 200 trang, cuốn tiểu thuyết này là sự tổng hòa lời kể của 4 nhân vật về những mẩu ký ức tuổi trẻ, tại không gian quán cà phê Le Condé. Từ những gì mà các nhân vật kể lại, cuộc đời của họ cũng dần được hé mở và quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối trở thành một nơi chốn trú ngụ giúp họ thoát khỏi cuộc đời u ám. Những hồi ức tuổi trẻ cũng là cách để tác giả đưa các nhân vật trở về với quá khứ của họ, bóc tách từng mảng nội tâm và tìm cách giải mã bí ẩn bên trong tâm hồn nhân vật. Việc nhân vật đi tìm “cội nguồn” của mình trở thành nét chủ đạo trong các tác phẩm văn học của Modiano, đồng thời được nâng tầm lên thành một vấn đề bao quát: con người với thời gian.

4. Của chuột và người – John Steinbeck


Với Của chuột và người, John Steinbeck đã đóng góp cho nền văn chương thế giới một trong những tác phẩm văn học xuất sắc nhất về tầng lớp lao động. Lấy bối cảnh nước Mỹ trong giai đoạn Đại Khủng hoảng kinh tế những năm 1930, Của chuột và người là câu chuyện bi thương của George và Lennie – 2 gã đàn ông lang thang tìm việc làm tại các nông trại ở California. Thông qua số phận của họ, John Steinbeck đã khắc họa một cách đau đớn nỗi khốn cùng của người dân lao động Mỹ, những mảnh đời cơ cực giữa một xã hội đầy rẫy bất công. Khát khao làm chủ của George và Lennie tương phản một cách phũ phàng với thực tế diễn ra tại nơi họ làm việc. Còn ước mơ và hoài bão của những người như họ thì mãi mãi chỉ là ảo vọng xa vời.

5. Buồn nôn – Jean-Paul Sartre


Buồn nôn là cuốn tiểu thuyết mang màu sắc hiện sinh của nhà triết học Jean-Paul Sartre. Tác phẩm xoay quanh nhân vật Antoine Roquentin, một nhà sử học đang chán nản cuộc sống hiện tại. Anh cư ngụ tại thành phố cảng hư cấu Bouville để hoàn tất công trình nghiên cứu về cuộc đời của một nhà hoạt động chính trị thế kỷ 18. Mùa đông năm 1932, một sự kiện kỳ lạ đã xảy ra với Antoine, khi những cơn buồn nôn ngày càng xuất hiện nhiều hơn trong các hoạt động của anh hoặc những sự vật xung quanh anh. Antoine tin rằng các vật thể và tình huống vô tri xâm lấn vào khả năng tự xác định bản thân và sự tự do về trí tuệ, tinh thần của anh, gợi lên trong nhân vật chính một cảm giác buồn nôn.

6. Chúa ruồi – William Golding


Chúa ruồi là tuyệt phẩm văn học của William Golding, mang đến cho người đọc những phút giây rùng mình kinh hãi và đặt ra câu hỏi, liệu có phải “nhân chi sơ, tính bản thiện”?

Diễn ra trong bối cảnh một cuộc chiến tranh nguyên tử, chiếc máy bay chở mấy chục đứa trẻ đi sơ tán gặp tai nạn và rơi xuống một hoang đảo tại Thái Bình Dương. Những đứa trẻ ấy đã phải tự sinh tồn, bắt đầu một cuộc sống tự lập. Xung đột nổ ra trước những khó khăn và thiếu thốn về lương thực nơi hoang đảo cùng nỗi thất vọng khi chúng bỏ lỡ cơ hội được cứu sống. Cuối cùng, xung đột lên đến đỉnh điểm đã bộc lộ sự tàn ác trong mỗi đứa trẻ. Câu chuyện được đẩy lên cao trào bằng những hành động sai trái mất kiểm soát.

7. Siddhartha – Herman Hesse


Siddhartha là cuốn tiểu thuyết mang tính cách ngôn của nhà văn người Đức Herman Hesse, kể về hành trình tâm linh của một người Ấn Độ tên là Siddhartha. Siddhartha vốn là tên của Đức Phật trước khi xuất gia nhưng trong cuốn tiểu thuyết này, Phật Thích Ca lại được tác giả gọi là Gotama. Câu chuyện bắt đầu khi nhân vật chính bỏ nhà ra đi cùng người bạn thân là Govinda để cùng các nhà tu khổ hạnh tìm kiếm sự khai sáng. Hành trình này đã giúp Siddhartha đi qua một chuỗi các thay đổi và tự nhận thức, nêu bật tầm quan trọng của việc trải nghiệm tận cùng mọi ngõ ngách để có thể thấu hiểu bản chất cuộc sống.

8. Tên tôi là Đỏ – Orhan Pamuk


Trên nền một câu chuyện trinh thám ly kỳ, Tên tôi là Đỏ đã mở ra một cuộc khai phá triết lý sống với những chiêm nghiệm về tình yêu, nghệ thuật, sự sống và cái chết, đồng thời khám phá vẻ đẹp của nền văn hóa Ba Tư trên nền đối thoại Đông – Tây.

Tên tôi là Đỏ đưa người đọc đến với Thổ Nhĩ Kỳ vào thế kỷ 16, tại kinh đô Istanbul thâm trầm, ngập tràn màu sắc văn hóa, lịch sử, tôn giáo và hội họa. Mùa Đông năm 1591, Hoàng đế nước Thổ ra lệnh cho các nhà tiểu họa thực hiện một cuốn sách ca ngợi đế quốc Thổ, minh họa theo phong cách phương Tây. Giữa bối cảnh văn hóa, lịch sử thời điểm đó, việc này là một điều cấm kỵ, ai thực hiện có thể tự chuốc lấy cái chết. Và điều đó đã thành sự thật, khi lần lượt từng thành viên trong đội ngũ minh họa cho cuốn sách qua đời một cách bí ẩn.

9. Trốn chạy – Alice Munro


Tác phẩm văn học nổi tiếng này khắc họa 8 câu chuyện của những người trốn chạy. Một thiếu phụ trốn chạy một cuộc hôn nhân không hạnh phúc, một cô gái trốn chạy để đến với tình yêu, một người con bỏ lại mẹ của mình để đi tìm những điều ý nghĩa, một người mẹ bỏ rơi đứa con để chạy theo giấc mơ của riêng mình. Cùng là trốn chạy nhưng những câu chuyện ấy không hề có công thức chung. Alice Munro dùng những lời văn bình thản, đẹp đẽ nhưng bộc lộ sự thấu hiểu tâm lý nhân vật vô cùng sâu sắc để kể nên những câu chuyện tưởng chừng rất đỗi bình thường. Để rồi chỉ cần một khoảnh khắc bất chợt sáng tỏ, một sự tiết lộ có khả năng thay đổi mọi thứ, bỗng chốc nhân vật và cả người đọc sẽ thấy nhói đau.

10. Mãi đừng xa tôi – Kazuo Ishiguro


Với bối cảnh một thế giới giả tưởng phản địa đàng nhưng vẫn mang tính thực tế, Mãi đừng xa tôi đưa ra một sự tranh luận đầy ám ảnh về số phận và giá trị thực sự của con người.

Xem thêm: Giải Ngữ Văn 10 Trang 62 ), Soạn Văn 10 Trang 62 Chân Trời Sáng Tạo

Kathy, Ruth và Tommy là 3 trong số những đứa trẻ đã lớn lên dưới mái trường nội trú Hailsham. Số phận đã được định đoạt ngay từ đầu, khi họ là những đứa trẻ nhân bản vô tính chỉ với mục đích hiến tạng. Họ thấu hiểu số phận của bản thân nhưng lại không biết làm gì để đấu tranh giành quyền được sống. Tuy vậy, họ vẫn muốn trì hoãn đoạn kết đến chừng nào có thể. Giọng điệu bình thản khắc họa một hiện thực đáng sợ và đầy ám ảnh cùng nỗi đau đớn đến xé lòng của những sinh mệnh không được phép lựa chọn về tình yêu và hạnh phúc.