Diễn đàn văn hóa Văn hóa Nghệ thuật Thông tin tư liệu Tin tức Xây dựng đời sống văn hóa Thế giới nghệ thuật
*

Diễn đàn văn hóa Văn hóa Nghệ thuật Thông tin tư liệu Tin tức Xây dựng đời sống văn hóa Thế giới nghệ thuật

Tiểu vùng sông Mê Kông là một trong những cái nôi đã hình thành nên nền văn minh nhân loại với lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, nhiều sắc thái văn hóa đặc sắc mang tính độc đáo. Việt Nam nói chung và Huế nói riêng là một trong những mảnh đất nằm trong khu vực cần khai thác về tiềm năng văn hóa du lịch trong lộ trình phát triển. Những giá trị lịch sử, văn hóa tâm linh mang đậm nét văn hóa truyền thống Việt như một sự kết nối giữa quá khứ - hiện tại và dung hợp - nơi còn lưu giữ những giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống độc đáo, quý giá, mang tính đặc trưng trên cơ sở kế thừa, chọn lọc những yếu tố tinh túy của kiến trúc dân tộc kết hợp với tiếp thu nghệ thuật kiến trúc của các nước trong Tiểu vùng sông Mê Kông, từ đó hội tụ thành một đô thị văn hóa ở vùng đất kinh kỳ với sự kết hợp đan xen, giao hòa và khác biệt.

Thừa Thiên - Huế nằm trong vùng Trung Bộ, là phần hẹp của lãnh thổ nước ta với địa hình phức tạp, độ cao biến đổi mạnh từ Tây sang Đông. Đất đai cằn cỗi, phù sa nhỏ, ít thuận lợi cho trồng trọt. Về điều kiện khí hậu, tính chất địa hình tự nhiên đã có những tác động khác nhau đến sự hình thành và phát triển văn hóa ở Thừa Thiên - Huế, đặc biệt là văn hóa cung đình và dân gian. Bàn về điều này, cố GS Trần Quốc Vượng từng nhận xét: “…người Huế khéo tạo cảnh nơi đây - từ tự nhiên thành văn hóa (man made Environment - môi sinh nhân văn)” (1). Trong tiến trình mở rộng bờ cõi và phát triển của đất nước, xứ Huế hình thành với vùng đất uốn lượn chảy dài phía Bắc giáp Quảng Trị, phía Nam giáp Hải Vân, phía Tây là dãy Trường Sơn hùng vĩ mà bên kia là nước Lào, phía Đông là biển với nhiều địa hình bờ biển gấp khúc, có những dòng sông xen kẽ. Huế còn là một trong các địa vực đã có con người tụ cư sinh sống từ rất sớm. Điều này không chỉ được ghi nhận trong các tư liệu lịch sử mà còn được minh chứng qua các phát hiện khảo cổ học TK XX. Những phát hiện trong khoảng ba mươi năm qua đã minh chứng khá nhiều dấu vết của người xưa trên đất Huế. Những di vật như rìu đá, đồ gốm được tìm thấy trong các tầng văn hóa vào những năm 1977-1978 đã khẳng định tại Huế có các di chỉ khảo cổ học với niên đại cách ngày nay hàng chục ngàn năm và tương đồng với niên đại khảo cổ học thời nguyên thủy của các nước tiểu vùng Mê Kông.

Bạn đang xem: Vài Nét Về Văn Hóa Xứ Huế

*

Trình diễn áo dài tại Festival Huế - Ảnh: Nguyễn Thanh Hà

1. Một số vấn đề về văn hóa xứ Huế và sự dung nạp giữa các nền văn hóa

Năm 1558, khi vào trấn thủ xứ Thuận Hóa, chúa Nguyễn Hoàng đã hướng đến việc xây dựng vùng đất này thành trung tâm kinh tế, chính trị xứng đáng với tầm vóc đô thành của Đàng Trong. Sang TK XVIII, các chúa Nguyễn đã thiết lập ở Đàng Trong những phủ chúa, những trung tâm văn hóa có sức tồn tại, lan tỏa mạnh mẽ và ảnh hưởng đến sự phát triển chung của vùng đất Thuận Hóa. Trong Ô Châu cận lục của tác giả Dương Văn An và trong Phủ biên tạp lục của nhà bác học Lê Quý Đôn đã mô tả xứ Đàng Trong - Phú Xuân từ TK XVI đến đầu TK XVIII đã rất phát triển, các phủ đệ được xây cất bằng gạch ở khắp nơi với tường cao dày, cửa rộng. Các bình phong với lối kiến trúc đẹp và trang nhã, các tạo hình trang trí theo đề tài tứ linh và trang trí hoa lá, quả cành bằng sành sứ. Năm 1802, khi chúa Nguyễn Ánh lên ngôi đặt niên hiệu là Gia Long, đóng đô ở Phú Xuân, xác lập sự thống trị trên phạm vi cả nước. Với một nước Đại Nam có đất đai vật lực, tiềm năng mọi mặt dồi dào và phong phú, đồng thời có vị trí là kinh đô của nước Đại Nam, xứ Huế trở thành trung tâm chính trị, văn hóa của quốc gia suốt TK XIX. Từ đây, đã có sự khẳng định về việc xây dựng kinh đô mới tại Phú Xuân. Sau khi lên ngôi năm 1804, Gia Long cho khảo sát địa thế để tiến hành xây dựng Kinh thành Huế, trên cơ sở kế thừa, chọn lọc những yếu tố tinh túy của kiến trúc dân tộc kết hợp với việc tiếp thu nghệ thuật kiến trúc Trung Quốc và kỹ thuật xây dựng thành lũy Pháp. Việc triều đình trưng tập thợ giỏi và của cải cả nước về Phú Xuân đã tạo ra cơ hội to lớn trong việc phát triển Phú Xuân thành đô thị văn hóa, nghệ thuật tập trung và đầy đủ nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam với thành lũy, lâu đài, cung điện, lăng mộ, các phường thợ, làng nghề với nhiều ngành nghề thủ công khác nhau tạo nên sự phong phú đa dạng, đa sắc yếu tố vùng miền.

Kể từ những đợt di dân của người Việt từ Bắc vào Nam với nhiều quy mô lớn nhỏ khác nhau bắt đầu diễn ra trên đất xứ Huế, sự hình thành cư dân ở nhiều vùng khác nhau cũng phần nào tạo nên các yếu tố văn hóa của xứ Huế, trong sự pha trộn với văn hóa Chăm - văn hóa Việt - văn hóa Á Đông, từ đó định hình các vùng văn hóa ven biển - đồng bằng - đồi núi. Xứ Huế trở thành nơi quần tụ của nhiều cư dân có nhiều sắc thái về nguồn gốc, là điểm giao thoa của nhiều nền văn hóa diễn ra liên tục trong hàng chục thế kỷ, điều này đã tác động đến thái độ ứng xử của nền văn hóa Chàm ở Huế cũng có điểm khác biệt. Kể từ khi xứ Huế thuộc vào chủ quyền của quốc gia Đại Việt, vùng đất này lại tiếp tục là nơi đan xen, giao hòa giữa hai nền văn hóa riêng. Không giống như những nơi khác, cư dân Chàm ở lại đất Thuận Hóa rất đông, sống hòa nhập vào cộng đồng người Việt và các dân tộc thiểu số, tạo thành khu vực dân cư đa sắc tộc, đa văn hóa, sống đan xen và có những tác động tinh thần qua lại rất mật thiết. Sự hòa nhập, đan xen giữa các nguồn cư dân Việt, Chàm, dân tộc thiểu số cũng là nguyên nhân khiến vùng Huế bảo lưu được nhiều yếu tố, lẫn tập quán tín ngưỡng của nhiều dân tộc trong bối cảnh văn hóa dung nạp và có sự chọn lọc kế thừa tinh túy. Cũng chính vì lẽ đó mà một phần nào phong cách văn hóa Huế đã được hình thành từ sự pha trộn, dung nạp giữa các nền văn hóa từ nhiều phía quy tụ lại, trong đó cốt cách của văn hóa Đại Việt tuy giữ vị trí chủ thể nhưng không còn ở nguyên mẫu. Về sau, những phẩm chất, đặc tính văn hóa ấy đã trở thành những dấu ấn đặc sắc của văn hóa thời Nguyễn tồn tại cho đến ngày nay.

2. Biểu hiện văn hóa Huế phong phú, đa dạng

Thời Nguyễn, Huế là thủ phủ, trung tâm chính trị, văn hóa của cả nước. Các vua nhà Nguyễn đã rất chú trọng tới việc xây dựng các công trình kiến trúc. Điều đó vừa thể hiện uy quyền của chế độ, vừa thể hiện nét riêng trong khoảng thời gian cầm quyền và điểm tựu trung là sự bảo hộ cho các lĩnh vực phát triển, thông qua việc đưa các mẫu hình văn hóa vào trong tổ chức, mà điển hình là công trình kiến trúc, tạo nên những dấu ấn riêng trong mỗi công trình và mỗi điểm nhấn mang lại những giá trị văn hóa - thẩm mỹ, tâm linh trường tồn với thời gian. Khi nói đến Huế, không thể vắng bóng hình ảnh sông Hương, núi Ngự, bóng dáng người thiếu nữ Huế và hình ảnh thành cổ rêu phong, trầm mặc với những công trình kiến trúc cung đình, chùa chiền sâu đậm nỗi niềm hoài cổ. Về vấn đề này, họa sĩ Phạm Đăng Trí đã nhận xét: “Phải chăng vì màu sắc thiên nhiên tại Huế xinh đẹp như vậy nên đã làm say đắm lòng người, đã tác động đến màu sắc do con người tạo ra trong đời sống hằng ngày qua những chiếc bánh, những chiếc lồng đèn ngũ sắc và nhất là qua những tà áo nhuộm màu phong phú...” (2). Văn hóa Huế vẫn giữ yếu tố chủ đạo là gốc Đại Việt và quy tụ được những yếu tố văn hóa mới, có tính tích cực từ nhiều ảnh hưởng đan xen, tất yếu và không thể bài trừ, điều đó cũng in dấu đậm nét trong các hoạt động nghệ thuật dân gian và trong trang trí kiến trúc cung đình thời Nguyễn, sự đặc sắc này còn lan tỏa với các nước trong tiểu vùng sông Mê Kông. Ngay từ khi chúa Nguyễn khai thác bờ cõi về phía Nam, âm nhạc ở Bắc truyền vào đã chịu ngay ảnh hưởng của âm nhạc Chăm pa. Dấu ấn của nghệ thuật Chàm trong văn hóa Huế và cả những phong vị Chàm trong lối sống của người Huế rất đậm nét và tạo ra điều mà cố GS Trần Quốc Vượng từng nêu khi bàn về bản sắc văn hóa dân tộc qua sắc thái Huế: “Văn hóa Huế là văn hóa đô thị nhưng tĩnh lặng và thanh bình đến lạ thường... là sự đan xen và giao thoa, giao hòa văn hóa Việt - Chàm, Việt - Minh Hương... Và bàng bạc trong xã hội, văn hóa Huế có một sắc thái hoài niệm cố đô” (3). Sự hoài niệm cố đô mà tác giả nhắc tới phải chăng là món quà tặng của thiên nhiên dành cho vùng đất thăng trầm này, với những thắng cảnh tuyệt diệu, kiến trúc đền đài, tập tục văn hóa tín ngưỡng,… kể cả những thăng trầm “riêng biệt” đối với người dân miền Trung luôn in hằn trong tâm trí của mỗi người con xứ Huế.

Bản tính người Huế trong ứng xử văn hóa, mỹ thuật thể hiện xứ Huế là vùng đất giàu truyền thống văn hóa. Bên cạnh những nét bình dân, mộc mạc, pha chút kiểu cách của người Huế, còn có nhóm cư dân với bản tính chắt chiu, cần kiệm của người xứ Nghệ, tính cách khí khái, hào hiệp, can trường của người xứ Quảng, cùng với tính chịu thương chịu khó của những lớp người di cư từ Đàng Ngoài vào. Sự dung tụ này cũng tạo nên tính cách đa sắc thái của cư dân miền Trung - xứ Huế. Những đặc tính này ít nhiều ảnh hưởng đến việc tạo lập kiến trúc nhà ở, chi phối cách lựa chọn ứng xử với thiên nhiên trong không gian cư trú.

Người Huế kín đáo và trầm lặng, ít nói, sống hoài cổ. Điều này còn thể hiện ở cái cách mà người Huế tiếp nhận cái mới, cái lạ, tất cả những gì mới và lạ du nhập vào Huế đều phải trải qua một quá trình thẩm thấu, chọn lọc thật kỹ thì mới được người Huế đón nhận. Sự gắn bó mật thiết với thiên nhiên mang biểu tượng, triết lý, tâm linh, văn hóa phong phú, sự tinh tế và tính nghệ thuật, thẩm mỹ - là những tố chất tạo nên nét văn hóa mang đậm dấu ấn của người dân Huế, người miền Trung.

3. Lời kết

Người Huế với tư cách là chủ nhân của vùng đất đô thành, kinh thành, kinh đô nên tự thân mang trong mình tố chất thị thành hay có thể nói có một lối sống thành thị, tính cách thành thị trong cư dân Huế, thể hiện trong thế ứng xử khi xây dựng cung điện, thành quách, phố xá, nhà cửa, lối sống, nếp sống của đô thành, thủ phủ, của con người chốn kinh kỳ. Trong cách ăn mặc, học hành, làm việc, và cả vui chơi giải trí của người Huế cũng thể hiện một cách sống đầy tính văn hóa nghệ thuật của cư dân thị thành. Người Huế trọng lễ nghĩa, đức độ, trọng đời sống tâm linh, văn hóa, biết vận dụng phong thủy trong làm nhà, dựng vườn, bài trí nội ngoại thất và trong tương tác, khai thác và ứng xử với tự nhiên. Cách ăn mặc của người Huế có những nét duyên dáng, kín đáo và bản sắc riêng. Điều này thể hiện rất rõ qua cách ăn mặc, mà chiếc áo dài tím và chiếc nón bài thơ đã trở thành biểu tượng của Huế và phụ nữ Việt Nam. Văn hóa ẩm thực Huế cũng thể hiện nét độc đáo của một vùng đất giàu bản sắc văn hóa vô cùng đa dạng và tinh tế, thanh khiết. Huế là vùng đất có truyền thống hiếu học. Điều này có sự thẩm thấu, lưu giữ và phát triển đến đỉnh cao qua nhiều loại hình nghệ thuật: âm nhạc, mỹ thuật, sân khấu cùng các lễ hội đậm màu sắc nghệ thuật với nhiều dòng nghệ thuật cung đình, dân gian phong phú, hòa quyện vào nhau. Người Huế trong phong cách của mình kế thừa dáng vẻ thanh lịch của người kinh kỳ và chịu ảnh hưởng của Phật giáo nên cư xử rất nhẹ nhàng, kín đáo, thận trọng, tinh tế, hợp lý hợp tình.

_______________________

1, 3. Trần Quốc Vượng, Dặm dài đất nước - Những vùng đất, con người, tâm thức người Việt, tập 2, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2006, tr.96, 44.

2. Phạm Đăng Trí, Qua những tà áo, thử tìm hiểu thị hiếu về màu sắc của người Huế thuở trước, Sông Hương dòng chảy văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003, tr.157.

Tài liệu tham khảo

1. Dương Văn An, Ô Châu cận lục, Hiệu đính - Dịch chú: Trần Đại Vinh - Hoàng Văn Phúc, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2001.

2. Trần Quốc Vượng, Xứ Huế dưới góc nhìn Địa - Chính trị - Văn hóa, Huế Di sản & Cuộc sống, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô, Huế, 2003.

Trong gần 400 năm (1558-1945), Huế đã từng là Thủ phủ của 9 đời chúa Nguyễn ở Đàng Trong, là Kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến Kinh đô của quốc gia thống nhất dưới 13 triều vua Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỷ, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây hun đúc cho một nền văn hóa đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh cho một bức cảnh thiên nhiên tuyệt vời sẵn bày sông núi hữu tình thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích thiên nhiên thợ trời khéo tạc...

*

Ngọ Môn nhìn từ điện Thái Hòa

Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỷ XIV (khi vua Chăm là Chế Mân dâng hai Châu Ô, Rí cho nhà Trần để làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân), các chúa Nguyễn (thế kỷ XVI-XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỷ XVIII) và 13 đời vua Nguyễn (1802-1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hóa vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích của Cố đô đã được sánh ngang hàng với các kỳ quan hằng ngàn năm tuổi của nhân loại trong danh mục Di sản Văn hóa thế giới của UNESCO.

Nằm giữa lòng Huế, bên bờ Bắc của con sông Hương dùng dằng chảy

*

xuyên qua từ Tây sang Đông, hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ trung ương tập quyền Nguyễn vẫn đang sừng sững trước bao biến động của thời gian. Đó là Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế, Tử cấm thành Huế, ba tòa thành lồng vào nhau được bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. Hệ thống thành quách ở đây là một mẫu mực của sự kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc Đông và Tây, được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên kỳ tú với nhiều yếu tố biểu tượng sẵn có tự nhiên đến mức người ta mặc nhiên xem đó là những bộ phận của Kinh thành Huế - đó là núi Ngự Bình, dòng Hương Giang, cồn Giã Viên, cồn Bộc Thanh... Nhìn từ phía ngược lại, những công trình kiến trúc ở đây như hòa lẫn vào thiên nhiên tạo nên những tiết tấu diệu kỳ khiến người ta quên mất bàn tay con người đã tác động lên nó.

*

Hoàng thành giới hạn bởi một vòng tường thành gần vuông với mỗi chiều xấp xỉ 600m với 4 cổng ra vào mà độc đáo nhất thường được lấy làm biểu tượng của Cố đô: Ngọ Môn, chính là khu vực hành chính tối cao của triều đình Nguyễn. Bên trong Hoàng thành, hơi dịch về phía sau, là Tử cấm thành - nơi ăn ở sinh hoạt của Hoàng gia.

Xuyên suốt cả ba tòa thành, khi thì lát đá cụ thể khi thì mang tính ước lệ, con đường Thần đạo chạy từ bờ sông Hương mang trên mình những công trình kiến trúc quan yếu nhất của Kinh thành Huế: Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, điện Càn Thành, cung Khôn Thái, lầu Kiến Trung... Hai bên đường Thần đạo này là hàng trăm công trình kiến trúc lớn nhỏ bố trí cân đối đều đặn, đan xen cây cỏ, chập chờn khi ẩn khi hiện giữa những sắc màu thiên nhiên, luôn tạo cho con người một cảm giác nhẹ nhàng thanh thản.

Xa xa về phía Tây của Kinh thành, nằm hai bên bờ sông Hương, lăng tẩm

*
của các vua Nguyễn được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua đôi khi lại là một cõi thiên đường tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Hàm nghĩa như vậy nên kiến trúc lăng tẩm ở đây mang một phong thái hoàn toàn riêng biệt của Việt Nam.

Mỗi lăng vua Nguyễn đều phản ánh cuộc đời và tính cách của vị chủ nhân đang yên nghỉ: lăng Gia Long mộc mạc nhưng hoành tráng giữa núi rừng trùng điệp khiến người xem cảm nhận được hùng khí của một chiến tướng từng trải trăm trận; lăng Minh Mạng uy nghi bình chỉnh đăng đối giữa rừng núi hồ ao được tôn tạo khéo léo, hẳn có thể thấy được hùng tâm đại chí của một chính trị gia có tài và tính cách trang nghiêm của một nhà thơ quy củ; lăng Thiệu Trị thâm nghiêm, vừa thâm trầm u uẩn giữ chốn đồng không quạnh quẽ, cũng thể hiện phần nào tâm sự của một nhà thơ siêu việt trên văn đàn song không nối được chí tiền nhân trong chính sự; lăng Tự Đức thơ mộng trữ tình được tạo nên chủ yếu bằng sự tinh tế của con người, phong cảnh nơi đây gợi cho du khách hình ảnh của một tao nhân mang nặng nỗi niềm trắc ẩn bởi tâm huyết của một nhà vua không thực hiện được qua tính cách yếu ớt của một nhà thơ...

*
Bên cạnh thành quách cung điện lăng tẩm nguy nga tráng lệ, Huế còn lưu giữ trong lòng bao nhiêu công trình kiến trúc độc đáo gắn liền với thể chế của hoàng quyền mà cách phối trí của các khoảng không gian đã tiến đến đỉnh cao của sự hài hòa trong bố cục. Song song với Kinh thành vững chãi bảo vệ bốn mặt, Trấn Bình Thành án ngữ đường sông, Trấn Hải Thành trấn giữ mặt biển, Hải Vân Quan phòng ngự đường bộ phía Nam, cả một hệ thống thành lũy của Kinh đô song không mấy ai để ý đến tính quân sự của nó vì nghệ thuật kiến trúc đã đạt đến đỉnh cao. Đan xen giữa các khu vực kiến trúc cảnh vật hóa độc đáo ấy, chúng ta còn có thể tham quan đàn Nam Giao - nơi vua tế trời; đàn Xã Tắc - nơi thờ thần đất, thần lúa; Hổ Quyền - đấu trường duy nhất dành cho voi và hổ; Văn Miếu - nơi thờ Khổng Tử và dựng bia khắc tên Tiến sĩ văn thời Nguyễn; Võ Miếu - nơi thờ các danh tướng cổ đại và dựng bia khắc tên Tiến sĩ võ; điện Hòn Chén - nơi thờ Thánh mẫu Thiên Y A Na... còn quá nhiều những thắng tích liên quan đến triều Nguyễn hòa điệu trong những thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng như sông Hương, núi Ngự, Vọng Cảnh, Thiên Thai, Thiên An, Cửa Thuận... thực sự là những bức tranh non nước tuyệt mỹ.

Huế từng hiện hữu những khu vườn ngự danh tiếng như Ngự Viên, Thư

*
Quang, Thường Mậu, Trường Ninh, Thiệu Phương... Chính phong cách kiến trúc vườn ở đây cũng lan tỏa khắp nơi trong dân gian, phối hợp với những nhân tố sẵn có, dần dần định hình một kiểu thức nhà vườn đặc thù của xứ Huế. Đây là thành phố của những khu nhà vườn với những ngôi nhà cổ thâm nghiêm ẩn hiện giữa xóm phường bình yên trong lòng cố đô. Mỗi một khu nhà vườn lại mang bóng dáng của Kinh Thành Huế thu nhỏ, cũng có bình phong thay núi Ngự, bể nước thế dòng Hương, đôi tảng đá cụm hoa thay cho cồn Dã Viên, Bộc Thanh... đủ các yếu tố tiền án, hậu chẩm, tả long, hữu hổ... lại bốn mùa hoa trái, ríu rít chim ca, không gian ấy còn là thế giới của những thi nhân mặc khách đối ẩm ngâm vịnh, là nơi diễn xướng những điệu ca Huế não nùng như Nam Bình, Nam Ai... trong những đêm gió mát trăng thanh.

*
Gần một thế kỷ rưỡi là Kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, lại từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu u tịch. Ông Amadou Mahtar
M’bow - Nguyên Tổng giám đốc UNESCO, đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hóa Huế: “Nhưng Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hóa sôi động - ở đó đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hòa nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lý hết sức độc đáo”.

Gắn với một triều đại phong kiến tuân thủ những nguyên tắc rạch ròi của

*
triết lý Khổng Mạnh, lễ hội và âm nhạc ở vùng kinh sư này đã phát triển vô cùng phong phú và mang đậm phong cách dân tộc. Triều đình thì có lễ Tế Giao, Tế Xã Tắc, lễ Nguyên Đán, lễ Đoan Dương, lễ Vạn Thọ, lễ Đại triều, lễ Thường triều, lễ Ban Sóc, lễ Truyền Lô, lễ Duyệt Binh... mỗi một lễ hội đều có những bước nghi thức mà phần hồn của nó chính là âm nhạc lễ nghi cung. Dân gian cũng đa dạng các loại hình lễ hội: lễ hội điện Hòn Chén, lễ hội Cầu Ngư, lễ hội vật Sình, lễ hội đua ghe, lễ hội tế đình, tế chùa, tế miếu... gắn kết với các loại hình lễ hội lại là những hình thức âm nhạc lễ nghi dân gian muôn màu muôn vẻ. Cùng tồn tại với dòng âm nhạc mang tính lễ nghi, loại hình âm nhạc mang tính giải trí tiêu khiển của xứ Huế cũng được thế giới biết đến như một điển hình mang đậm bản sắc riêng của một vùng văn hóa, mộc mạc thuần khiết, đặc thù không pha trộn. Đó là những điệu múa Huế, những vở tuồng Huế, những bài ca Huế mà ngày nay đã trở thành những món ăn tinh thần không thể thiếu trong một chuyến tham quan Cố đô của du khách mọi miền. Huế ngày nay vẫn đang gạn đục khơi trong, cố giữ gìn những tinh hoa văn hóa cổ truyền của dân tộc, cố bảo tồn những hình thái nghệ thuật được tạo nên bằng trí tuệ tâm huyết của tiền nhân nay đang ở bên bờ lãng quên, cố phục hồi những giá trị tinh thần quí báu của cha ông khi còn có thể.

*
Các loại hình âm nhạc truyền thống mang tính giải trí tiêu khiển vẫn đang được bảo tồn gần như nguyên vẹn trong lòng thành phố Huế. Vừa qua, điều khiến cho người dân Huế vui mừng nhất là Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế phối hợp với Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam dưới sự cố vấn của nhiều nhà khoa học trong nước và nước ngoài, đã thiết lập hồ sơ đệ trình UNESCO xin công nhận Âm nhạc cung đình Huế: Nhã nhạc (triều Nguyễn) là Kiệt tác di sản văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của nhân loại. Tuy mọi việc vẫn còn ở phía trước, song động thái đó cũng đủ nói lên giá trị vô vàn của âm nhạc truyền thống Huế.

Ngày nay, Huế trở thành một thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam. Cứ

*
mỗi hai năm, nhân dân thành phố Huế lại đón chào ngày lễ hội trọng đại này trong niềm háo hức, mừng vui khôn cùng. Trong ý nghĩ của nhiều người, Huế trở thành thành phố Festival gần như là một điều tất yếu vì ở Huế còn bảo lưu khá điển hình diện mạo một kinh đô của triều đại phong kiến mà các công trình kiến trúc lại hòa điệu với thiên nhiên tạo nên những tiết tấu độc đáo với những lễ hội, âm nhạc, ẩm thực truyền thống được bảo tồn phong phú đa dạng.

Xem thêm: 25 Địa Điểm Du Lịch Gần Sài Gòn Đỉnh Của Chóp, Tổng Hợp Các Địa Điểm Du Lịch Khám Phá Ở Sài Gòn

Cách cấu tạo giữa kiến trúc và cảnh quan làm cho Huế trở thành một thành phố của sự hài hòa giữa kiến trúc - thiên nhiên và con người “Huế thực hiện được sự tổng hợp giữa đạo và đời trong kiến trúc, tổng hợp được cổ xưa và hiện đại, qua đó cố đô cổ kính chung sống hài hòa với thành phố trẻ mới ngày nay”.

*

Với một di sản văn hóa vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hóa độc đáo của Việt Nam và thế giới. Di sản Huế đang được bảo tồn rất tốt bởi những nỗ lực không mệt mỏi của Đảng bộ và nhân dân Thừa Thiên Huế, của Bộ Văn hóa Thông tin, mà trực tiếp là Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế. Ngày 11 tháng 12 năm 1993, cả nước hân hoan đón mừng Quần thể di tích Cố đô được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới; ngày 7 tháng 11 năm 2003 vừa qua, văn hóa Huế một lần nữa được đăng quang khi Âm nhạc cung đình Huế: Nhã nhạc (triều Nguyễn) đã được UNESCO ghi tên vào danh mục Các Kiệt tác Di sản phi vật thể của nhân loại. Hẳn không chỉ như vậy, với một công cuộc bảo tồn lớn lao theo những tiêu chuẩn cao nhất của Di sản Thế giới, kho tàng văn hóa Huế sẽ còn nở rộ những đóa hoa nghệ thuật khác nữa. “Huế sẽ mãi mãi được giữ gìn” cho Việt Nam và cho thế giới, mãi mãi là niềm tự hào của chúng ta.