Hiện Vật Tiêu Biểu Cho Nền Văn Hóa Đông Sơn Tại Hàn Quốc, Văn Hóa Đông Sơn
90 năm phát hiện và nghiên cứu, các nhà khoa học đều cho rằng văn hóa Đông Sơn có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong tiến trình lịch sử văn hóa Việt Nam. Nền văn hóa này là cơ sở vật chất cho việc hình thành nhà nước đầu tiên Văn Lang - Âu Lạc, nhà nước đầu tiên thời đại các Vua Hùng, và là nền tảng cho sự hình thành bản sắc văn hóa Việt cổ, cũng như văn minh Đại Việt sau này. Rực rỡ một nền văn minh Việt cổ Văn hóa Đông Sơn được xác định tồn tại trong khoảng từ thế kỷ VII trước Công nguyên đến thế kỷ I - II sau Công nguyên. Qua hàng trăm di tích cùng với khối di vật đồ sộ đã được phát hiện và nghiên cứu, là minh chứng sinh động cho nguồn gốc bản địa, sự phát triển lâu dài, liên tục và trực tiếp từ các văn hóa tiền Đông Sơn (Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun), đến đỉnh cao văn hóa Đông Sơn và văn minh Đại Việt. Theo thống kê, hiện đã có trên 200 di tích thuộc văn hóa Đông Sơn được phát hiện ở nước ta, chủ yếu phân bố ở 3 lưu vực sông chính là sông Hồng (đồng bằng Bắc Bộ), sông Mã (Thanh Hóa) và sông Cả (Nghệ An). Nhiều di vật văn hóa Đông Sơn còn được phát hiện ở các tỉnh miền Trung, miền Nam, Tây Nguyên của Việt Nam và một số nước khu vực Đông Nam Á. Đến nay, số lượng di vật thuộc văn hóa Đông Sơn đã tìm được vô cùng đồ sộ, được lưu giữ ở các bảo tàng trong nước, nước ngoài và các sưu tập tư nhân.
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia là một trong những nơi lưu giữ và trưng bày nhiều hiện vật văn hóa Đông Sơn nhất hiện nay với khoảng 10.000 hiện vật, bao gồm các chất liệu đa dạng như: đồng, gốm, gỗ, đá... Trong đó, hiện vật đồng chiếm số lượng nhiều hơn cả, đặc biệt là sưu tập trống đồng. Bên cạnh đó, còn có các sưu tập công cụ lao động, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt và đồ trang sức... Trong đó có nhiều hiện vật được công nhận Bảo vật quốc gia như thạp đồng Đào Thịnh, trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Hoàng Hạ, đèn hình người quỳ... Điều đó cho thấy ý nghĩa, giá trị và tầm quan trọng của các hiện vật thuộc văn hóa này.Theo TS Nguyễn Văn Đoàn - Phó Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, văn hóa Đông Sơn có vị trí vô cùng quan trọng trong tiến trình lịch sử dân tộc, và là nền tảng vật chất đối với sự hình thành bản sắc văn hóa Việt cổ cũng như văn minh Đại Việt sau này. Những năm gần đây, việc điều tra, phát hiện mới và khai quật hàng loạt các di tích văn hóa Đông Sơn như các di tích như Mả Tre, Đình Tràng (Cổ Loa, Hà Nội), Bãi Cọi (Hà Tĩnh), các di tích tiền Đông Sơn như Xóm Dền (Phú Thọ), Nghĩa Lập (Vĩnh Phúc) với sự hợp tác của các chuyên gia nước ngoài đã góp phần làm sáng tỏ hơn nữa sự đa dạng, sự thống nhất cũng như mối quan hệ, giao lưu và vị thế của văn hóa Đông Sơn với các văn hóa đồng đại khu vực lân cận. Các nhà khoa học cũng đã xây dựng đầy đủ các phông tư liệu về văn hóa Đông Sơn với các lát cắt phản ánh các phương diện khác nhau về văn hóa Đông Sơn, về đời sống cư dân Việt cổ qua các hình thức cư trú và nhà ở, các phương thức mai táng, đời sống tinh thần, đời sống sản xuất... Trên cơ sở nghiên cứu về văn hóa Đông Sơn, hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng, văn hóa Đông Sơn chính là cơ sở vật chất và là sự thể hiện sinh động “hình ảnh” của nhà nước đầu tiên trong lịch sử: Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc, và là nền tảng hình thành truyền thống văn hóa Việt Nam.
Thạp đồng Đào Thịnh - hiện vật điển hình, đặc biệt về đồ dùng sinh hoạt của cư dân Đông Sơn. Ảnh: BTLSQG
Đỉnh cao của nghề luyện kim, đúc đồng Nghề luyện kim, đúc đồng ở thời kỳ văn hóa Đông Sơn đã phát triển và đạt đến trình độ nghệ thuật đỉnh cao. Theo Ths.Nguyễn Quốc Hữu (Phó trưởng Phòng Trưng bày, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia), thống kê cho thấy, tỷ lệ đồ đồng trong văn hóa Đông Sơn chiếm tới gần 90% trong tổng số hiện vật được tìm thấy, với hàng vạn tiêu bản, thuộc nhiều loại hình khác nhau, đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu sản xuất, đời sống của cư dân Đông Sơn, từ trống đồng, đồ dùng sinh hoạt, vũ khí, trang sức. Văn hóa Đông Sơn là văn minh của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, nên người Đông Sơn đã có cả một bộ nông cụ chuyên dụng, tiên tiến. Để chặt cây, khai hoang họ chế tạo các loại rìu, dao. Để đắp bờ, mở thửa, làm đất họ có các loại cuốc, xẻng, mai, thuổng, lưỡi cày... Đặc biệt, các cư dân Đông Sơn đã chế tạo được nhiều những chiếc liềm, một loại công cụ gặt tiên tiến giúp cho việc gặt hái nhanh hơn, cho năng suất cao hơn. Người Đông Sơn cũng đã tạo ra bộ công cụ làm mộc, có cấu tạo và chức năng gần như bộ công cụ làm mộc hiện đại, dùng để dựng nhà sàn, đóng thuyền và chế tác các loại vật dụng sinh hoạt... Bộ công cụ mộc gồm có các loại đục vũm, đục bẹt với nhiều kiểu dáng dài ngắn, thon bè thích hợp với từng kỹ thuật đục chạm khác nhau, hoặc các loại rìu xéo dùng để tu chỉnh sản phẩm mộc.
Do sản xuất phát triển, tạo được nhiều của cải dư thừa, người Đông Sơn đã chế tác ra những chiếc thạp lớn nhỏ nhiều kích thước để cất trữ lương thực, thực phẩm. Đồng thời, thạp còn liên quan đến các nghi lễ chôn cất người chết. Đây là loại di vật khá điển hình của văn hóa Đông Sơn, chứa đựng nhiều giá trị nghệ thuật tương tự như trống đồng. Minh chứng tiêu biểu nhất khẳng định kỹ thuật luyện kim, đúc đồng của người Đông Sơn đã đạt tới trình độ cao là việc chế tạo những chiếc trống đồng, thạp đồng với kích thước lớn, hình dáng cân đối, hoa văn trang trí hoàn hảo, sắc nét đến từng chi tiết... Cho tới nay, hàng trăm chiếc trống đồng đã được tìm thấy trong phạm vi phân bố của văn hóa Đông Sơn. Đồng thời, một số trống đồng Đông Sơn điển hình cũng được tìm thấy ở nhiều nơi khác thuộc Đông Nam Á và Nam Trung Quốc. Nhưng những chiếc trống đẹp nhất, hoàn hảo nhất đều được phát hiện tại Việt Nam, như trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Hoàng Hạ, trống đồng Sông Đà, trống đồng Cổ Loa... Trên cơ sở phân tích kiểu dáng và phong cách hoa văn trang trí, cùng trang phục của các hình người trang trí trên trống đồng, các nhà khảo cổ học đã phân loại trống đồng Đông Sơn thành các loại hình có niên đại sớm muộn khác nhau. Trong đó, nhóm trống Ngọc Lũ đẹp nhất, có niên đại sớm nhất. Các nhà khảo cổ cũng đã nghiên cứu và nhận ra sự khác biệt của trống đồng Đông Sơn với trống đồng của tộc Điền Vân Nam, Trung Quốc, từ đó xác định, trống đồng Đông Sơn là di vật tiêu biểu của người Việt cổ thời dựng nước đầu tiên của dân tộc. Trải qua quá trình phát triển hàng mấy trăm năm, dù có sự thay đổi nhất định, nhưng trống đồng Đông Sơn vẫn giữ được kiểu dáng và các loại hoa văn cơ bản. Đó chính là những đặc trưng cơ bản của truyền thống văn hóa Việt cổ, mà ngày nay chúng ta vẫn còn bắt gặp trong các đường trang trí trên váy Mường, trên các nhạc cụ của người Việt... Theo đánh giá của các nhà khảo cổ học, những di vật của văn hóa Đông Sơn đã trở thành những tư liệu sống động, phản ánh cuộc sống sôi động, hào hùng của chủ nhân văn hóa Đông Sơn từ hơn hai nghìn năm trước. Và văn minh Đông Sơn đã trở thành một thành tố quan trọng cho việc lập nên quốc gia, dân tộc Việt Nam, và là niềm tự hào của chúng ta về tổ tiên thủa bình minh của lịch sử. Phương Hà
Giới thiệu Hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ Công tác trưng bày Tin tức Trưng bày Trưng bày chuyên đề Nghiên cứu Khảo cổ họcẤn phẩm Dự án BTLSQG Thông tin hữu ích Hỗ trợ Trống đồng Đông Sơn tồn tại trong gần một thiên niên kỷ nên về kiểu dáng có những biến đổi nhất định. Trong những năm gần đây, nhất là trong mấy năm giới khảo cổ và sử học nước ta tập trung nghiên cứu thời kỳ dựng nước của các vua Hùng, các nhà khảo cổ học đã tiến hành nghiên cứu sắp xếp, hệ thống hóa để tìm ra quy luật diễn biến của trống đồng Đông Sơn. Ngoài các bài đăng trong số 2, số 13 và 14 tạp chí Khảo cổ học chuyên đề trống đồng, đã xuất hiện một số công trình chuyên khảo về trống đồng. Đó là cuốn “ Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam” của 2 tác giả Nguyễn Văn Huyên và Hoàng Vinh xuất bản năm 197 giới thiệu 52 trống lớn và 53 trống minh khí khi phát hiện ở Việt Nam, không kể 13 trống bị thất lạc hoặc chưa xác minh được.
Năm 1987, các tác giả Phạm Minh Huyền, Nguyễn Văn Huyên và Trịnh Sinh trong cuốn “ Trống đồng Đông Sơn” đã giới thiệu 144 chiếc trống đồng Đông Sơn, cùng đề cập đến một số trống đồng Đông Sơn phát hiện được ở các nước Đông Nam Á. Công phu hơn cả là công trình nghiên cứu tập thể của Viện Khảo cổ học do GS Phạm Huy Thông chủ trì “ Trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam” bằng hai ngôn ngữ Anh- Việt xuất bản năm 1990, đã giới thiệu 118 trống lớn, 6 trống minh khí với đầy đủ bản vẽ và ảnh. Đây có thể coi là công trình công bố một cách đầy đủ, cập nhất về trống đồng Đông Sơn lúc bấy giờ.
Trên cơ sở nguồn tư liệu đó, nhiều vấn đề về trống đồng Đông Sơn được đề cập đến, nhất là vấn đề phân loại trống đồng.
Trống Sông Đà- một loại trống đồng Đông Sơn, hiện vật thuộc quyền quản lý của Bảo tàng Guimet (Pháp).
Về kiểu dáng trống đồng Đông Sơn phần lớn các nhà nghiên cứu đều cho là có 2 dạng trống đồng. Một dạng là trống thấp lùn, một dạng là trống cao gầy. Nhưng mối quan hệ giữa hai dạng kiểu dáng này thì chưa được sáng tỏ. Sự diễn biến của trống trước hết được thể hiện trên mặt trống. Loại trống sớm như Ngọc Lũ, Cổ Loa, Hoàng Hạ có mặt trống nhỏ hơn tang trống. trống càng muộn, mặt trống càng rộng ra, loại muộn nhất mặt trống tràn ra ngoài tang trống. Những loại trống sớm trên mặt trống chưa có các nhóm tượng cóc, loại trống muộn trên mặt trống có gắn tượng cóc ngồi theo chiều ngược kim đồng hồ, có loại là tượng cóc đơn, có loại là tượng cóc cõng nhau.
Hoa văn trang trí thân trống đồng Ngọc Lũ.
Đó là về kiểu dáng, còn về hoa văn trang trí trên mặt, tang và thân trống cũng có những diễn biến nhất định. Trước hết những trống sớm, hoa văn trang trí phong phú, ngoài các loại hoa văn kỹ hà như văn vòng tròn đồng tâm, vòng tròn đơn, vòng tròn kép, vòng tròn tiếp tuyến, văn răng cưa, văn răng lược, hồi văn … còn có các vành hoa văn về động vật như chim bay, chim đứng rình mồi, hưu nai chạy, bò u, cá sấu…Đặc biệt là hoa văn tả cảnh sinh hoạt của con người lúc bấy giờ như cảnh giã gạo đôi, cảnh đánh trống, đánh chiêng, cảnh trẻ em chơi trồng nụ trồng hoa, cảnh nhảy múa, cảnh đua thuyền, cảnh thuyền chiến v.v…
Hoa văn trang trí tang trống đồng Ngọc Lũ.
Những hoa văn này được khắc vẽ rất hiện thực sinh động. Những trống muộn có xu hướng giảm dần hoa văn và ngày càng cách điệu. Cảnh người hóa trang nhảy múa trông giống như cờ lau bay, không rõ hình người. và một số trống đã không còn các vành hươu, nai xuất hiện. Ngay cả vành tả cảnh sinh hoạt trên mặt trống cũng không còn, mà chỉ còn hoa văn kỹ hà cùng một vành có 4 hoặc 6 con chim bay theo chiều ngược kim đồng hồ, tang trống không còn vành thuyền chiến hoặc đua thuyền. Hoa văn kỹ hà cũng trang trí theo một quy trình chặt chẽ, trống nào đã trang trí văn răng lược thì không có văn răng cưa, hoặc trái lại đã có văn răng cưa thì không có văn răng lược; không bao giờ trang trí lẫn lộn văn răng lược và văn răng cưa với nhau.
Hình họa trang trí mặt trống đồng Hoàng Hạ.
Trên cơ sở diễn biến của kiểu dáng và hoa văn trang trí, các nhà khảo cổ học nước ta phân loại trống đồng Đông Sơn thành các loại hình có niên đại sớm muộn khác nhau. Trong đó, nhóm trống Ngọc Lũ đẹp nhất, có niên đại sớm nhất. Nhóm trống muộn nhất có kích thước nhỏ, chế tạo thô thiển, hoa văn trang trí cực kỳ đơn giản, thường chỉ có văn mặt trời. Tiêu biểu cho loại này là trống Thượng Nông, trống Đào Xá, trống Tùng Lâm.
Giữa hai nhóm trống đó là nhóm trống có kích thước tương đối nhỏ, hoa văn đơn giản chỉ còn vành hoa văn chim bay. Nhóm này có số lượng tương đối lớn, tiêu biểu là trống Định Công, trống Quảng Thắng, trống Bình Đà. Nhóm trống này có kích thước tương đối lớn. Mặt trống hơi chườm ra ngoài tang trống và có khối lượng cóc trên mặt trống, hoa văn trang trí trên mặt trống được cách điệu cao như kiểu cờ bay; tiêu biểu là trống Hữu Chung, trống Lạc Long, trống Phú Phương…
Qua các phân tích trên, chúng ta có thể thấy rõ: từ trong hàng ngàn, hàng vạn trống đồng phân bổ trên một vùng rộng lớn của Đông Nam Á, các nhà khảo cổ đã nhận biết ra được trống đồng loại 1 He Ger. Rồi trên cơ sở phân tích kiểu dáng và phong cách hoa văn trang trí cùng trang phục của các hình người trang trí trên trống đồng loại I Heger đã nhận ra sự khác biệt của trống đồng Đông Sơn khác với trống đồng loại I Heger của tộc Điền Vân Nam, Trung Quốc. Từ đó đi đến xác định trống đồng Đông Sơn là di vật tiêu biểu của người Việt cổ thời dựng nước đầu tiên của dân tộc.
Trong quá trình phát triển hàng mấy trăm năm, trống đồng Đông Sơn có diễn biến nhất định về kiểu dáng cũng như hoa văn trang trí, nhưng vẫn giữ được kiểu dáng và các loại hoa văn cơ bản. Đó chính là những đặc trưng cơ bản của truyền thống văn hóa Việt cổ mà ngày nay chúng ta vẫn còn bắt gặp trong các đường trang trí trên váy Mường, trên các nhạc cụ của người Việt v.v…
Có thể nói trống đồng Đông Sơn được nhận thức là tinh hoa của cuộc sống Đông Sơn. Nó phản ánh trí tuệ, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người Đông Sơn. Chính vì thế có thể xem trống đồng Đông Sơn là hiện vật tiêu biểu của văn minh Đông Sơn, cũng là văn minh Việt Nam thưở dựng nước.