(Thanh tra) - Bộ sách "Chân trời sáng tạo" cũng là một bộ sách của Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam (NXBGD VN). Như các bộ sách khác, bộ sách này có nhiều hạn chế về nội dung và ngữ liệu.


Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bộ sách Cánh diều đang có những hạt sạn

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nói về sai sót của sách Cánh Diều

Tiếng Việt 1 Bộ “Kết nối tri thức với cuộc sống”: Nhiều ngữ liệu phản cảm



Dưới đây là những nhược điểm của bộ sách được giáo viên phản ánh. Bộ sách do ông Bùi Mạnh Hùng làm Tổng Chủ biên và bà Nguyễn Thị Ly Kha làm Chủ biên. Điều đáng nói là, sách Tiếng Việt lớp 1 Bộ “Kết nối tri thức với cuộc sống” cả một núi sạn về ngữ liệu với những kiến thức thách đố học trò được rất nhiều báo chí nhặt mãi chưa hết, cũng do ông Bùi Mạnh Hùng làm Tổng Chủ biên.

Bạn đang xem: Những hạn chế của bộ sách chân trời sáng tạo

Khối lượng kiến thức quá nhiều 

Cô H phân tích: “Dạy học theo sách giáo khoa (SGK) mới, phần học âm, học vần học sinh chưa nhớ, chưa nắm chắc đã vội vàng chuyển sang phân môn tập đọc”. Đến phần vần, sách dạy đến 3, 4 vần một bài. Kèm theo SGK có quá nhiều sách bài tập mà hầu như không có tác dụng. Thêm vào đó, sách quá nhiều hình ảnh khiến nội dung bị loãng và làm phân tán sự tập trung chú ý của học sinh. Các em tập đọc qua hình ảnh mà không nhớ mặt chữ. Cô H nêu ví dụ: “Hình ảnh con ghẹ, các con vừa nhìn vừa đọc “ghẹ”, thế nhưng sau đó cô viết từ “ghẹ” lên bảng, không còn hình ảnh, các con không biết đọc”.

Tranh ảnh nhiều và với kích cỡ quá to ở một số trang làm cho hình ảnh ở nhiều trang át phần chữ, làm cho học sinh chú ý nhiều đến hình mà quên chữ.

Bất cập nữa là phần khởi động qua tranh. Nhiều bức tranh giáo viên nhìn mãi mới ra nhưng lại áp dụng dạy cho học sinh lớp 1... là không phù hợp.

“Chương trình mới tăng tải chứ không giảm, giáo viên, học sinh, phụ huynh đều rất áp lực, học tập vô cùng vất vả”.

Báo Vietnamnet, mục Giáo dục “Góc phụ huynh” cũng phản ánh tâm trạng của phụ huynh có con học sách "Chân trời sáng tạo" “hoảng thật sự vì chương trình mới dạy nhiều thứ trong một tiết học quá, không biết làm sao con theo nổi”.

Các bài học trong cuốn sách từ bài 1 đã được chia khiên cưỡng thành các chủ đề

Các cô giáo đọc "Chân trời sáng tạo" ở giai đoạn chọn sách đã phản ánh: Đây là bộ SGK chia nội dung học chữ, vần vào từng chủ đề (Những bài học đầu tiên, Bé và bà, Đi chợ, Kì nghỉ,...). Mỗi chủ đề có 5 bài học chữ, vần.

Phần Luyện tập tổng hợp bắt đầu từ tuần 21 cũng chia các bài thành các chủ đề. Mỗi tuần có 4 bài đều là tên các bài Tập đọc. Mục lục mỗi tuần chỉ có tên mấy bài đọc nên giáo viên nhìn Mục lục thì không biết phải phân phối chương trình 12 tiết học Tiếng Việt trong 1 tuần như thế nào, khác hẳn Mục lục SGK lớp 1 cũ. “Cách đặt tên bài theo thứ tự trong từng chủ điểm không phù hợp đối với học sinh lớp 1. Giáo viên cũng khó khăn khi hướng dẫn học sinh mở sách học bài cũng như dặn dò học sinh chuẩn bị bài, ôn luyện bài khi ở nhà”.

Một số bài đọc, câu chuyện khiên cưỡng, tùy tiện sửa chữa bản gốc

Sách có những bài học không gắn gì với chủ đề. Ví dụ: Ngựa gỗ phi ra  phố (tr.61), Bà ở quê ra cho cả nhà bé giỏ quà (tr. 67) có nội dung không liên quan gì đến chủ đề Đi sở thú.

Một số câu chuyện dạy nói cuối tuần tác giả tự nghĩ ra những chuyện như chuyện giáo dục đạo đức nhưng rất nhạt. Ví dụ: “Bé và chị đi chợ” (tr. 39, tập 1) kể chuyện nhặt ví tiền rơi. Truyện “Nghỉ hè” (tr. 49, tập 1), không hiểu sao dưới tranh 3 có câu: “Anh Đức bị con gì đó quấn chân” (khi lặn biển). Câu hỏi dưới tranh lửng lơ như thế thì không hiểu rồi anh Đức có làm sao không? Có thoát được cái gì đó quấn chân không? Tr. 109 có truyện tên là “Sóc và dúi” nhưng gần như không thấy nói gì đến sóc. Câu chuyện khiên cưỡng khuyên dúi phải chăm tập thể dục cho gầy đi mới chui ra được khỏi hang, gắn với chủ đề “Ngày Chủ nhật” chỉ ở chi tiết chuyện xảy ra vào chủ nhật. Truyện “Sự tích đèn Trung thu” trang 129 rất khó hiểu. Người lớn nhìn tranh cũng không trả lời được các câu hỏi và không hiểu câu chuyện được dẫn dắt thế nào.

Những câu chuyện nổi tiếng chắc chắn có nguồn thì bị vi phạm bản quyền nghiêm trọng, không được ghi tên tác giả. Ví dụ: “Rùa và thỏ” (tr. 79, tập 1), “Giấc mơ của một cậu bé” (tr. 169), “Khúc rễ đa” (tr. 179)... Điều đặc biệt là có những câu chuyện được viết lại một cách tùy tiện. Ví dụ: Truyện về hổ và thỏ, và mưu trí của thỏ không hiểu vì lý do gì mà tác giả tùy tiện đổi tên nhân vật thành Khỉ và sư tử (tr. 69, tập 1). Cứ theo cách này, tác giả lại “chế” thành mô tip khỉ và gà, hổ và chó...cũng nên.

Truyện “Rùa và thỏ” kể rất lạ! Bắt đầu bằng câu Rùa rủ thỏ chạy thi. Làm gì có chuyện một con rùa vốn biết mình không thể thi chạy với thỏ, bỗng dưng lên tiếng thách thức, khiêu khích thỏ cùng chạy thi với mình?


Văn bản đọc khô khan, một số bài đọc quá sức học sinh 

Bắt đầu từ chủ đề 10, có rất nhiều bài dạy 3 vần, có cả những bài dạy đến 4 vần khó.

Một số bài đọc quá khó. Một số bài đưa cả tên riêng nước ngoài dạy lớp 1 là quá khó:

Bài “Người sáng chế chuột máy tính” (tr.163, tập 1) nói về máy tính, chuột, En-gôn-bát. Học sinh lớp 1 làm sao tiếp nhận nổi những thông tin này.

Bài “Thiên tài Ê-đi-xơn” (165, tập 1): Không biết Ê-đi-xơn có phải là người chế ra xe điện không?

 Bài “Sinh nhật của Mich-ki” (trang 157, tập 1).

Bài “Luôn luôn vươn lên” viết về vua hề Sác - lô (167, tập 1).

Bài "Khu rừng kì lạ dưới đáy biển" (tr. 125, tập 2) phiên âm tên tác giả nước ngoài lạ hoắc là Giun-lờ Ven nên giáo viên không biết đó là ông nào? Hóa ra đó là tác giả quen thuộc Giuyn Véc-nơ.

Bài tập đọc "Chuyện xảy ra trên đường" (tr. 98, tập 2) e là không phù hợp. Ở thành phố lớn, cha mẹ chắc không để cho đứa trẻ lớp 1 tự đi đến trường.

Nhiều bài tập đọc là thơ nhưng không do nhà thơ viết nên giá trị giáo dục thẩm mỹ cho trẻ em qua thơ văn chắc là không ổn.

Sách có nhiều từ khó, từ địa phương, “sạn’ từ ngữ

Sách không tránh được dùng phương ngữ. Có cả từ khó, cực ít dùng như: ngoáp (tr. 23, tập 2). Không biết ngoáp là từ gì vậy? Chắc chỉ vì tác giả sách cần dạy vần oap nên từ đặc biệt đó được giới thiệu?

Có những từ dùng gượng gạo:

Mẹ cho bé bộ bi ve nhỏ xíu. (tr. 77, tập 1). Sao lại có cái gọi là bộ bi ve?

Ba xẻ mít (tr. 108, tập 1). Sao không là bổ mít mà lại là xẻ mít? Mặt trời viết sai chính tả. Phải viết là Mặt Trời (tr. 37)

Một loạt từ ngữ khó, chưa phù hợp theo ý kiến giáo viên. Ví dụ: “chả chìa” (tr. 55), “rối que” (tr. 82), “trống ếch” (tr. 126), “nấm mối” (tr. 130), “vàng rộm” (tr. 135), “cửa chớp” (tr. 145), “công kênh” (tr. 151), “riềng đỏ” (tr. 171), “muỗm leo” (tr. 175),…

Dạy tô chữ hoa không cần có mẫu

Giáo viên phàn nàn nội dung dạy tô chữ hoa chỉ có một chữ hoa cỡ bé lít nhít, không có mẫu, không có chỉ dẫn đường nét, hướng bút (xem tr. 47 tập 2). Giáo viên nhìn SGK thì không thể hiểu cần hướng dẫn học sinh viết thế nào, chữ cỡ nào: cỡ to, cỡ nhỏ, hay cỡ nhỡ.

Tóm lại, các bộ SGK Tiếng Việt lớp 1 của NXBGD Việt Nam còn rất nhiều sạn. Bộ GD&ĐT cần yêu cầu Hội đồng Thẩm định và NXBGD VN rà soát và xác định nội dung sửa chữa một cách cụ thể, không chỉ đề nghị một cách chung chung. Điều này rất có ý nghĩa khi NXBGD VN là một doanh nghiệp thuộc Bộ.

Được biết, trước ý kiến của các cơ quan báo chí lên tiếng trong thời điểm vừa qua và hiện nay, NXBGD VN đã có chủ trương đề nghị lên Bộ GD&ĐT sửa lỗi ngữ liệu. Tuy nhiên, điều lạ là Bộ GD&ĐT vẫn chưa có công văn hồi đáp NXBGD VN. Bộ mới chủ trương rà soát, chưa yêu cầu NXB sữa lỗi. Trong khi học sinh đã học sắp hết kỳ 1. Hậu quả nhãn tiền là các em đã “đánh vật” với mấy bộ sách vừa sai, vừa dở, vừa khó.

Đề nghị Bộ GD&ĐT vào cuộc ngay lập tức, cho sửa chữa lỗi và phương án sửa công khai trên báo chí, như đã làm với bộ sách xã hội hóa Cánh Diều. Khi nào mới yêu cầu NXB GD VN sửa sai SGK tiếng Việt lớp 1, thưa Bộ trưởng?

MÔN HỌC/HĐGD- TÁC GIẢBỘ SÁCHƯU ĐIỂM(Ghi rõ ưu điểm theo 4 tiêu chí)HẠN CHẾ(có minh chứng cụ thể)THỨ TỰ LỰA CHỌN(với từng môn học, HĐGD đánh số thứ tự ưu tiên, bắt đầu từ số 1 là ưu tiên cao nhất)MÔN TOÁNTác giả: Hà Huy Khoái (Tổng Chủ biên)Kết nối tri thức với cuộc sống– Nội dung từng bài học liên kết với nhau, mạch kiến thức được dàn trải đều cho các tiết học. Tạo cơ hội phát triển năng lực, phẩm chất HS.– Hình thức trình bày phong phú, kênh hình rõ nét.– Phát triển phẩm chất & năng lượng của mọi người học tập1. Các câu hỏi, câu lệnh, nhiệm vụ học tập trong các bài học* SGK Toán 2 Tập một :Bài 17 ( T69 ) Thực hành & thưởng thức mang những đơn vị chức năng kilogam & lít : Bài bốn : Cần nhắc rõ rệt rót lớp nước đông đảo trong những ly & những ly lớp nước đa số như nhau .Bạn đang xem: Ưu nhược điểm của bộ sách chân trời sáng tạo

Bài 19 (T75): Phép cộng (có nhớ) số có hai chữ số với số cá một chữ số: Bài 3: Cần lấy ngữ liệu thực tế hơn và điều chỉnh phần yêu cầu: “Hãy tìm kết quả các phép tính giúp Việt nhé”

Bạn đang đọc: Ưu nhược điểm của bộ sách chân trời sáng tạo lớp 2 – Chợ Nhạc

2. Về tính đúng chuẩn, công nghệ & sự tương thích của những ngữ liệu / logo vào phiên bản sách giáo khoa sở hữu đối tượng người dùng học viên :* Tập một :Hình thức trình diễn tóm lược ( Trang 51 ) không bảo vệ .Từ ngữ vào sách nên trình diễn đúng chuẩn luật lệ Tiếng Việt ( Trang 72 )Từ ngữ dùng vào ngữ liệu bắt buộc sửa chữa thay thế bởi ngôn ngữ đặc trưng dễ dàng gọi rộng sở hữu học viên ( Trang 89 )* Tập 2 :Từ ngữ vào sách bắt buộc trình diễn chuẩn lệ luật Tiếng Việt ( Trang 70 ; trang 82 ; trag 85 … )Bài 56 : ( T71 ) Giới thiệu tiền vàng Nước Ta : Phần xét nghiệm phá ra mắt những tờ tiền ảo Nước Ta : Cần thay thế sửa chữa những tờ tiền xu 100 đồng ; 200 đồng ; 500 đồng. ( Các tờ tiền vàng mang ra lúc bấy giờ ko vẫn xuất hiện )Tác giả: Trần Nam Dũng (Tổng Chủ biên)Chân trời sáng tạoHình thức trình bày bộ sách cân đối, hài hòa giữa kênh chữ và kênh hình, hệ thống kí hiệu, biểu tượng, kiểu chữ, cỡ chữ.– Các phẩm chất siêng năng, sống động, nghĩa vụ và trách nhiệm đc dựng nên đi qua quy trình “ có tác dụng toán ”, đặc biệt quan trọng đi qua bài toán xử lý yếu tố .QC


*

Tôm Khô Vinh Kim – Đặt Sản Trà Vinh

– Chú trọng phát triển năng lực và phẩm chất Toán học cho HS.

 Hình ảnh rõ ràng, sinh động, gần gũi, học sinh dễ quan sát.

– Phần kể chuyện khó với học sinh.– Chủ đề luyện nói lặp lại nhiều lần.MÔN ĐẠO ĐỨCTác giả: Nguyễn Thị Toan (Tổng Chủ biên)Kết nối tri thức với cuộc sốngĐáp ứng đầy đủ các tiêu chí 1, 2, 3, 41Tác giả: Phạm Quỳnh (Chủ biên)Vì sự bình đẳng và dân chủ trong giáo dụcNội dung sách giáo khoa chú trọng đến việc rèn cho học sinh khả năng tự học, tự tìm tòi kiến thức, vận dụng kiến thức thông qua các nhiệm vụ học tập đặt ra trong mỗi bài học.Kênh chữ hơi nhiều: Bài 4 phần luyện tập (trang 22), Bài 7: Tôi sạch sẽ, phần luyện tập bài 2 (trang 36)3Tác giả: Lưu Thu Thủy (Tổng Chủ biên kiêm Chủ biên)Cánh diềuCác bài học trong sách giáo khoa được thiết kế, trình bày đa dạng các hoạt động, tạo điều kiện cho giáo viên lựa chọn được hình thức dạy học phù hợp.Tranh và cỡ chữ một số bài hơi nhỏ so với học sinh lớp 2.2MÔN TNXHTác giả: Vũ Văn Hùng (Tổng Chủ biên kiêm Chủ biên)Kết nối tri thức với cuộc sốngĐáp ứng đầy đủ các tiêu chí 1, 2, 3, 41Tác giả: Mai Sỹ Tuấn (Tổng Chủ biên)Cánh diềuSách giáo khoa được trình bày đảm bảo tính thẩm mĩ, tạo hứng thú cho học sinh và phù hợp với đặc trưng môn học.Bài 5: Trường học của em

Hình ảnh nhỏ, chữ rõ nét (Các phòng học và các phòng khác) (Trang 34, 35)


Hiện đã triển khai đến 100% giáo viên dạy được tiếp cận với những bộ sách giáo khoa mới thông qua các tác giả trực tiếp giới thiệu.Bạn đang xem: Ưu nhược điểm bộ sách chân trời sáng tạo

Nên tiếp thu có chọn lọc

Việc tổ chức rất bài bản và đáng học tập. Nội dung các bộ sách đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Nhưng tôi bận tâm đến rất nhiều điều khác.

Tôi là giáo viên THCS, đồng thời là một phụ huynh có con học lớp 1 năm trước. Khi nhà trường chọn sách giáo khoa mới, chúng tôi rất tin tưởng vào sự lựa chọn của thầy cô.


*

Nhưng khi đó, bộ sách Cánh Diều được giới truyền thông quan tâm đặc biệt, vạch lá tìm sâu, thì chúng tôi rất hoang mang: Liệu chương trình mới có vấn đề gì hay không? Sách mới khó học quá Bởi những điều truyền thông nêu lên đều là sự thật về sạn của ngữ liệu bộ sách Cánh Diều. Nhưng qua một thời gian, chúng tôi cũng băn khoăn: tại sao chỉ có Cánh Diều có sạn? Vậy các bộ sách khác thì sao? Chả lẽ hoàn hảo đến mức không tì vết? Câu chuyện sách lớp 1 là chủ đề bàn tán sôi nổi của các phụ huynh trong mọi nơi, kể cả lúc ăn cỗ, hội họp, gặp mặt. Tôi có mấy người bạn con học lớp 1 của trường không chọn bộ Cánh Diều. Họ cũng kêu khó, kêu có vấn đề này vấn đề kia Tôi mượn xem thì thấy đúng như vậy. Chúng tôi bảo nhau: Thôi thì chương trình mới ra, bao giờ chả có những điều cần chỉnh sửa. Miễn sao họ tiếp thu và chỉnh lý để khi tái bản sẽ tốt hơn. Nhưng dần dần, chúng tôi nhận thấy: tại sao sách nào cũng có sạn mà truyền thông lại chỉ tập trung vào Cánh Diều?.

Chợt nhớ năm ngoái, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống của NXB Gbaigiangdienbien.edu.vn.edu.vn.edu.vn có tới 37 trang lỗi sai, cần phải sửa chữa ngay, nhưng cho đến nay, thầy trò lớp 1 của bộ sách này và ba bộ sách của NXB GD VN cũng chưa được sửa chữa như bộ Cánh Diều.

Và bây giờ, thầy trò dạy bốn bộ sách của NXB GD VN vẫn đang phải dạy và học sách lỗi. Đó là điều đáng tiếc. Từ băn khoăn đó, tôi rất nghiêm túc khi nghe tiếp thu chương trình sách giáo khoa lớp 6 mới, chăm chú theo dõi các tác giả giới thiệu tất cả các bộ sách lớp 6 dự kiến sẽ đưa vào giảng dạy trong năm học 2021-2022. Tôi nhận thấy một vài điều:

Thứ nhất: Trước khi tập huấn, các nhà trường được phát 2 bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống và Chân trời sáng tạo. (Trong khi chương trình là tiếp cận cả 3 bộ sách, nhưng không thấy phát sách Cánh Diều). Chúng tôi muốn có sách Cánh Diều chỉ biết qua link sách mềm hoặc phải tự tìm nguồn khác.


*

SGK Ngữ văn lớp 6 Cánh Diều

Sau buổi tiếp thu trực tuyến, chúng tôi được tham dự rất nhiều buổi tiếp thu trực tiếp (đặc biệt bộ Kết nối tri thức với cuộc sống và toàn bộ 8 quyển sách Tiếng Anh). Bộ Chân trời sáng tạo giới thiệu qua loa khoảng 5 phút cuối cùng (trong thời lượng 1 ngày). Chúng tôi lại càng băn khoăn: sao không thấy Cánh Diều đi trao đổi trực tiếp?

Trong các buổi đó, người giới thiệu (hoặc tác giả) đều nói lên những ưu điểm của từng cuốn sách. Ngoài bản cứng, chúng tôi còn được tiếp cận bản mềm của tất cả các bộ sách. Phương châm của chúng tôi là bỏ qua hết những thắc mắc băn khoăn cá nhân, việc chọn sách điều đầu tiên là phải vì học trò. Tuy Cánh Diều không trao đổi trực tiếp, nhưng chúng tôi đã đọc và cảm nhận, đưa ra thảo luận trong nhóm, tổ chuyên môn, Hội đồng lựa chọn sách giáo khoa của trường bỏ phiếu và đã quyết định lựa chọn sách Cánh Diều.

Về hình thức: Tất cả các bộ sách đều hấp dẫn, bắt mắt. Khi lật mở bên trong, bằng cảm quan, chúng tôi nhận thấy bộ sách Cánh Diều gần gũi, cấu trúc hợp lý, sắp xếp khoa học, các ngữ liệu gần gũi với cuộc sống.

Nội dung có tính kế thừa bộ sách cũ, nhưng lại giảm tải và có nhiều đổi mới tích cực, giáo viên có thể vận dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực hiệu quả phù hợp với xu thế chung, phần đổi mới cũng rất vừa sức với học sinh, dễ dạy dễ học. Nguồn tài nguyên giáo dục đa dạng phong phú, phù hợp với tâm sinh lý, lứa tuổi, thích hợp với mọi vùng miền.

Một lý do nữa: Trong giáo dục, chúng ta vẫn kêu gọi xã hội hoá để giảm bớt gánh nặng ngân sách cho Nhà nước. Thì Cánh Diều là bộ sách xã hội hoá đầu tiên và duy nhất cho đến thời điểm này, hoàn toàn không sử dụng vốn của Nhà nước. Điều này có thể lý giải phần nào việc Kết nối tri thức với cuộc sống đã in luôn giá tiền trên bìa sách, còn Cánh Diều thì đề sách không bán, và Chân trời sáng tạo để trống phần giá.

Chúng tôi thấy sách Cánh Diều do giáo sư Nguyễn Minh Thuyết chủ biên (Ông cũng là tổng chủ biên chương trình sách giáo khoa mới) nên rất sát với yêu cầu của chương trình đổi mới. Cho con học sách Cánh Diều, chúng tôi hoàn toàn yên tâm. Sách Cánh Diều lớp 1 đã từng bị đánh hội đồng, nhưng các nhà biên soạn đã rất cầu thị tiếp thu và nhanh chóng khắc phục những nhược điểm để hoàn thiện hơn. (Có thể nói là vàng ròng đã qua thử lửa).

Bộ sách nào cũng có những ưu nhược điểm nhất định, nhưng với quan điểm một chương trinh nhiều bộ sách như hiện nay, nguồn học liệu của giáo viên và học sinh rất mở, phong phú. Giáo viên có thể chọn 1 bộ để dạy nhưng vẫn có thể tham khảo bộ khác để làm phong phú thêm nguồn học liệu của mình. Mặt khác, quan điểm một chương trình, nhiều bộ sách cũng mang lại sự cạnh tranh lành mạnh, buộc các tác giả phải bỏ nhiều tâm huyết vào đứa con tinh thần của mình để đưa sách đến được tay thầy và trò các trường.

Chọn Cánh Diều, nhưng chúng tôi vẫn luôn mong muốn có thêm nhiều bộ sách thật sự đáp ứng được mong mỏi của thầy và trò, để việc dạy và học được thuận lợi, và cũng đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục, thực hiện được phương châm một chương trình , nhiều bộ sách.

Thời điểm lựa chọn sách giáo khoa đang ở giai đoạn nước rút, chỉ vài tháng nữa thôi, từng tỉnh thành sẽ biết con em mình được học bộ sách nào. Nhưng giá như chia nhỏ ra, mỗi quận huyện được quyền chọn lựa, thì sẽ sát với thực tế vùng miền, hiệu quả sẽ cao hơn nhiều.

MÔN HỌC/HĐGD- TÁC GIẢBỘ SÁCHƯU ĐIỂM(Ghi rõ ưu điểm theo 4 tiêu chí)HẠN CHẾ(có minh chứng cụ thể)THỨ TỰ LỰA CHỌN(với từng môn học, HĐGD đánh số thứ tự ưu tiên, bắt đầu từ số 1 là ưu tiên cao nhất)MÔN TOÁNTác giả: Hà Huy Khoái (Tổng Chủ biên)Kết nối tri thức với cuộc sống– Nội dung từng bài học liên kết với nhau, mạch kiến thức được dàn trải đều cho các tiết học. Tạo cơ hội phát triển năng lực, phẩm chất HS.– Hình thức trình bày phong phú, kênh hình rõ nét.– Phát triển phẩm chất và năng lượng của người học1. Các câu hỏi, câu lệnh, nhiệm vụ học tập trong các bài học* SGK Toán 2 Tập 1 :Bài 17 ( T69 ) Thực hành và thưởng thức với những đơn vị chức năng kg và lít : Bài 4 : Cần nói rõ rót nước đều vào những cốc và những cốc nước đều như nhau .

Bài 19 (T75): Phép cộng (có nhớ) số có hai chữ số với số cá một chữ số: Bài 3: Cần lấy ngữ liệu thực tế hơn và điều chỉnh phần yêu cầu: “Hãy tìm kết quả các phép tính giúp Việt nhé”

2. Về tính đúng chuẩn, khoa học và sự tương thích của những ngữ liệu / hình ảnh trong bản mẫu sách giáo khoa với đối tượng người tiêu dùng học viên :* Tập 1 :Hình thức trình diễn tóm tắt ( Trang 51 ) chưa bảo vệ .Từ ngữ trong sách cần trình diễn đúng quy tắc Tiếng Việt ( Trang 72 )QC


*

Tôm Khô Vinh Kim – Đặt Sản Trà Vinh

Từ ngữ sử dụng trong ngữ liệu nên thay thế sửa chữa bằng từ ngữ khác dễ hiểu hơn với học viên ( Trang 89 )* Tập 2 :Từ ngữ trong sách cần trình diễn đúng quy tắc Tiếng Việt ( Trang 70 ; trang 82 ; trag 85 … )Bài 56 : ( T71 ) Giới thiệu tiền Nước Ta : Phần khám phá ra mắt những tờ tiền Nước Ta : Cần thay thế sửa chữa những tờ tiền 100 đồng ; 200 đồng ; 500 đồng. ( Các tờ tiền đưa ra lúc bấy giờ không còn lưu hành )Tác giả: Trần Nam Dũng (Tổng Chủ biên)Chân trời sáng tạoHình thức trình bày bộ sách cân đối, hài hòa giữa kênh chữ và kênh hình, hệ thống kí hiệu, biểu tượng, kiểu chữ, cỡ chữ.– Các phẩm chất chịu khó, trung thực, nghĩa vụ và trách nhiệm được hình thành qua quy trình “ làm toán ”, đặc biệt quan trọng qua việc xử lý yếu tố .

– Chú trọng phát triển năng lực và phẩm chất Toán học cho HS.

– Sách tiếp cận người học theo “ cách học sinh học toán ”, tương thích với sở trường thích nghi và năng lượng cá thể .– Chú trọng tính ứng dụng tích hợp với những môn học của lớp 2, đặc là hoạt động giải trí thực hành thực tế và thưởng thức giúp HS tăng trưởng năng lượng .Tác giả: Đỗ Đức Thái (Tổng Chủ biên)Cánh diềuSách được thiết kế theo chủ đề giúp giáo viên linh hoạt hơn trong giảng dạy tùy theo thực tế của lớp học.– Hình ảnh sinh động, bảo vệ tính thẩm mĩ .– Nội dung sách giáo khoa bảo vệ tính thừa kế, ngôn từ và phương pháp biểu lộ tương thích với văn hóa truyền thống, lịch sử vẻ vang, địa lý của địa phương, bảo vệ tính mềm dẻo, hoàn toàn có thể kiểm soát và điều chỉnh, bổ trợ nội dung tương thích, sát với địa phương. Hệ thống câu hỏi, bài tập tương thích .– Kênh số và kênh chữ chưa phù hợp.– Nội dung 1 số ít bài chưa có tính khoa học .MÔN TIẾNG VIỆTTác giả: Bùi Mạnh Hùng (Tổng Chủ biên kiêm Chủ biên)Kết nối tri thức với cuộc sống– Cấu trúc sách giáo khoa có đủ các thành phần cơ bản sau: phần, chương hoặc chủ đề; bài học; giải thích thuật ngữ; mục lục.– Sách giáo khoa được trình diễn mê hoặc, cân đối, hòa giải giữa kênh chữ và kênh hình ; bảo vệ tính thẩm mĩ .– Bảo đảm đúng mực, khách quan, đồng nhất và tương thích với trình độ học viên .– Các bài học kinh nghiệm tạo điều kiện kèm theo cho giáo viên vận dụng sáng tạo những giải pháp và hình thức tổ chức triển khai dạy học lấy học viên làm TT ; khuyến khích học viên tích cực, dữ thế chủ động, sáng tạo .– Ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu. Các lao lý về chính tả, những chữ viết, những kí hiệu đúng theo lao lý của Bộ, biểu lộ đúng chuẩn nội dung cần trình diễn, tương thích với lứa tuổi học viên .– Các bài học kinh nghiệm biểu lộ đúng, đủ, rõ mức độ phân phối nhu yếu cần đạt về phẩm chất, năng lượng của học viên và nhu yếu về nhìn nhận tác dụng giáo dục được lao lý trong chương trình môn học .Số lượng văn bản thơ nhiều.Phần luyện nói khó so với học viênTác giả: Bùi Mạnh Hùng (Tổng Chủ biên)Chân trời sáng tạo– Bố cục cấu trúc rõ ràng khoa học.– Sách giáo khoa được trình diễn mê hoặc, cân đối, hòa giải giữa kênh chữ và kênh hình ; bảo vệ tính thẩm mĩ ; tạo được sự hứng thú cho học viên .– Lượng kiến thức và kỹ năng truyền thụ tương thích với học viên gắn liền với những hoạt động giải trí trong đời sống. Bài tập đọc tích hợp với hình ảnh minh họa tương thích .– Câu hỏi đưa ra cho mỗi nội dung hoạt động giải trí. lượng kỹ năng và kiến thức tương thích .Phần vận dụng của một số bài khó đối với học sinh:Ví dụ : SGK – TV2 ( tập 1 ) trang 25 .Đọc một bài về trẻ nhỏa ) Chia sẻ về bài đọc đó ?b ) Viết vào phiếu đọc sách những điều em đã san sẻ ?– Nội dung của từng phân môn chưa rõ ràng từng phần dẫn đến học viên chưa nhận ra được đơn cử .Tác giả: Nguyễn Minh Thuyết (Tổng Chủ biên kiêm Chủ biên)Cánh diều– Cấu trúc sách giáo khoa có đủ các thành phần cơ bản sau: phần, chương hoặc chủ đề; bài học; giải thích thuật ngữ; mục lục.– Nguồn tài nguyên vốn có trong SGK phong phú và phong phú và đa dạng .

 Hình ảnh rõ ràng, sinh động, gần gũi, học sinh dễ quan sát.

– Phần kể chuyện khó với học sinh.– Chủ đề luyện nói lặp lại nhiều lần.MÔN ĐẠO ĐỨCTác giả: Nguyễn Thị Toan (Tổng Chủ biên)Kết nối tri thức với cuộc sốngĐáp ứng đầy đủ các tiêu chí 1, 2, 3, 41Tác giả: Phạm Quỳnh (Chủ biên)Vì sự bình đẳng và dân chủ trong giáo dụcNội dung sách giáo khoa chú trọng đến việc rèn cho học sinh khả năng tự học, tự tìm tòi kiến thức, vận dụng kiến thức thông qua các nhiệm vụ học tập đặt ra trong mỗi bài học.Kênh chữ hơi nhiều: Bài 4 phần luyện tập (trang 22), Bài 7: Tôi sạch sẽ, phần luyện tập bài 2 (trang 36)3Tác giả: Lưu Thu Thủy (Tổng Chủ biên kiêm Chủ biên)Cánh diềuCác bài học trong sách giáo khoa được thiết kế, trình bày đa dạng các hoạt động, tạo điều kiện cho giáo viên lựa chọn được hình thức dạy học phù hợp.Tranh và cỡ chữ một số bài hơi nhỏ so với học sinh lớp 2.2MÔN TNXHTác giả: Vũ Văn Hùng (Tổng Chủ biên kiêm Chủ biên)Kết nối tri thức với cuộc sốngĐáp ứng đầy đủ các tiêu chí 1, 2, 3, 41Tác giả: Mai Sỹ Tuấn (Tổng Chủ biên)Cánh diềuSách giáo khoa được trình bày đảm bảo tính thẩm mĩ, tạo hứng thú cho học sinh và phù hợp với đặc trưng môn học.Bài 5: Trường học của em

Hình ảnh nhỏ, chữ rõ nét (Các phòng học và các phòng khác) (Trang 34, 35)

2Tác giả: Đỗ Xuân Hội (Tổng Chủ biên)Chân trời sáng tạoCấu trúc sách giáo khoa tạo điều kiện cho học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, rèn kĩ năng hợp tác, khả năng tư duy độc lập của học sinh.Nội dung trong một bài học quá nhiều hoạt động so với học sinh lớp 2.3GIÁO DỤC THỂ CHẤTTác giả: Đặng Ngọc Quang (Tổng Chủ biên kiêm Chủ biên)Cánh diều– Mức độ tiếp cận kiến thức hợp lý, vừa đáp ứng yêu cầu chương trình, thân thiện gần gũi với hs.– Bố trí bài học kinh nghiệm theo chủ đề tương thích với học viên lớp 2. Đội hình đội ngũ, bài tập thể dục, tư thế và kiến thức và kỹ năng hoạt động cơ bản, thể thao tự chọn ( Bóng đá và bóng rổ ) .– Sách phong cách thiết kế phong phú những hình thức tập luyện, Hình vẽ sinh động dễ hiểu, dễ tiếp thu gần gữi với học viên .– Mầu sắc rõ ràng điển hình nổi bật hấp dẫn học viên .– Đảm bảo sự hòa giải những hoạt động giải trí hình thành kiển thức, rèn kỹ năng và kiến thức hoạt động giải trí thực hành thực tế, vận dụng kỹ năng và kiến thức thực tiễn vào đời sống .– Bộ sách giúp giáo viên có thê vận dụng linh động theo đạc điểm từng trường hoặc từng địa phương .– Bộ sách phong cách thiết kế quy mô hoạt động giải trí. Trong đó nội dung sách giáo khoa bộc lộ hoạt động giải trí học sách giáo khoa tổ chức triển khai hoạt động giải trí đó. Thiết kế tạo điều kiện kèm theo hs tích cực, dữ thế chủ động sáng tạo .– Thiết kế mỹ thuật đẹp, mê hoặc, thuận tiện sủ dụng mỗi hs .– Tư thế kỹ năng vận động : Bài 4: Các động tác quỳ cơ bản và Bài 5: Các động tác ngồi cơ bản chưa phù hợp vì nhà trường chưa có nhà đa năng, học trên sân nền đất nội dung này sẽ không đảm bảovề trang phục và vệ sinh thân thể.– Lượng kỹ năng và kiến thức, kiến thức và kỹ năng trong mỗi bài học kinh nghiệm còn nhiều, quá sức so với học viên lớp 2 .– Học sinh triển khai động tác giậm chân tại chỗ, đứng lại so với lứa tuổi lớp 2 của những em là hơi khó, nội dung hơi nặng .

Xem thêm: Luyện Giải De Thi Vào 10 Môn Ngữ Văn Có Đáp Án, 50 Đề Ôn Thi Vào Lớp 10 Môn Văn Có Đáp Án

– Nội dung khai thác trong một tiết học quá nhiềuhơi nặng so với hs lớp 2.

2Tác giả: Nguyễn Duy Quyết (Tổng Chủ biên)Kết nối tri thức với cuộc sống– Sách trình bày kênh hình đa dạng, đẹp.– Sách có nội dung rèn năng lực tư duy, tò mò kiến thức và kỹ năng mới

– Bố trí hài hòa giữa kênh hình và kênh chữ. Phối cảnh màu sắc hấp dẫn của từng bài học cụ thể